Long Thành – vùng đất giàu truyền thống cách mạng, kiên cường bất khuất trong kháng chiến.Với vị trí chiến lược trọng yếu ở cửa ngõ phía Nam của Tổ quốc, Long Thành đã sớm trở thành vùng đất cách mạng sôi động. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Long Thành là căn cứ địa quan trọng, nơi đứng chân của nhiều đơn vị chủ lực như Tiểu đoàn 240, các lực lượng vũ trang địa phương, nơi diễn ra nhiều trận đánh oanh liệt, lập nên những chiến công hiển hách góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Với những đóng góp to lớn ấy, Đảng, Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Đảng bộ và Nhân dân huyện Long Thành.
Chính từ trong khói lửa chiến tranh, truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết, dũng cảm, kiên trung của quân và dân Long Thành đã được hun đúc, trở thành nền tảng tinh thần quý báu để Đảng bộ và nhân dân Long Thành tiếp tục vững bước trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương.
Sau 30/4/1975, phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, Long Thành là vùng đất năng động, sáng tạo, đã và đang vươn mình mạnh mẽ trên con đường phát triển toàn diện. Trong hành trình ấy, ngành Tuyên giáo huyện Long Thành đã không ngừng nỗ lực, sáng tạo, luôn là lực lượng xung kích và hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình trên mặt trận tư tưởng – văn hóa, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, cổ vũ tinh thần yêu nước, khơi dậy và phát huy nội lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân huyện nhà; góp phần giữ vững khối đoàn kết thống nhất, tạo nền tảng tinh thần cho công cuộc đổi mới và phát triển quê hương.
I)- GIAI ĐOẠN 1975 – 1985: GIỮ VỮNG TRẬN ĐỊA TƯ TƯỞNG, ỔN ĐỊNH TINH THẦN NHÂN DÂN; ĐỘNG VIÊN TOÀN ĐẢNG, TOÀN DÂN, TOÀN QUÂNKHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, CHUNG SỨC, CHUNG LÒNG XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG:
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Long Thành - như bao địa phương khác, phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Bước đầu xây dựng lại quê hương trong điều kiện xuất phát điểm rất thấp, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, cơ sở vật chất kiệt quệ, đời sống nhân dân thiếu thốn, tư tưởng còn nhiều phức tạp, đặc biệt là những tàn dư của chế độ cũ để lại.
Trong bối cảnh ấy, công tác tư tưởng, tuyên truyền được xác định là nhiệm vụ trọng yếu. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Tuyên giáo (lúc bấy giờ thuộc Ban Tuyên huấn) ngay từ những ngày đầu sau 30/4/1975, đã tập trung tuyên truyền và góp phần đạt được các nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng: (1) tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, đường lối hòa hợp, hòa giải dân tộc của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; (2)tổ chức tuyên truyền, học tập, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV; (3) ổn định tư tưởng chính trị, củng cố niềm tin, định hướng dư luận và tạo sự đồng thuận xã hội.
Tháng 1/1976, tỉnh Đồng Nai thành lập, huyện Long Thành và huyện Nhơn Trạch sáp nhập, lấy tên là huyện Long Thành. Huyện ủy Long Thành được hình thành[1].Đồng chí Nguyễn Văn Thông (nguyên quyền Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa) được cử giữ chức chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phạm Thanh Lý - Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân; đồng chí Nguyễn Thanh Sơn-UVTV, Trưởng ban Tuyên huấn, đến những năm 1977-1978, đồng chí Nguyễn Minh Sơn giữ chức vụ Trưởng Ban Tuyên giáo.
Huyện Long Thành khi ấy có diện tích lớn nhất tỉnh Đồng Nai.Điều này đặt ra nhiều thách thức cho công tác tuyên giáo trên địa bàn huyện. Từ những ngày đầu đầy khó khăn ấy, ngành Tuyên giáo huyện Long Thành đã cùng các lực lượng chính trị xã hội giữ vững trận địa tư tưởng, kiên định lý tưởng cách mạng, đồng hành cùng Nhân dân trên hành trình vượt qua thử thách.Với tinh thần trách nhiệm cao, đội ngũ cán bộ tuyên huấn đã dấn thân vào cơ sở, nắm chắc tình hình tư tưởng, từ đó kịp thời tham mưu cấp ủy ban hành các giải pháp phù hợp để vận động, thuyết phục nhân dân tin tưởng vào đường lối của Đảng, đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tàn dư của chế độ cũ, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng,duy trì dòng chảy tư tưởng cách mạng trong quần chúng, củng cố niềm tin của nhân dân để cùng chung sức, đồng lòng dựng xây quê hương ngày càng phát triển vững mạnh. Nổi bật là trong thực hiện một số nhiệm vụ trọng yếu sau:
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sáchđược xem là nhiệm vụ hàng đầu. Sau ngày giải phóng, xuất phát từ thực tiễn nhiều đảng viên trình độ văn hóa, lý luận chính trị còn hạn chế; năm 1976, huyện đã cử đảng viên tham gia các lớp bồi dưỡng chính trị cấp tỉnh và tổ chức 5 lớp tập huấn tại chỗ cho 95 báo cáo viên, 65 tổ trưởng, chi ủy viên.Các cấp ủy đã tạo điều kiện cho đảng viên học tập nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước.Bên cạnh đó, hệ thống tuyên huấn từ huyện đến cơ sở đã tổ chức hàng trăm buổi tuyên truyền miệng, học tập Nghị quyết, đưa thông tin cách mạng đến từng xóm ấp, xây dựng niềm tin trong quần chúng nhân dân.Qua đó, nâng cao chất lượng đội ngũ, bổ sung cán bộ cho các ban ngành, xã và tăng cường công tác lãnh đạo địa phương.Cho đến năm 1978, mặt trận và các đoàn thể của huyện được kiện toàn và hoạt động hiệu quả, thu hút nhiều đối tượng phù hợp tham gia. Công tác tuyên truyền vận động của các đoàn thể đến với các tầng lớp nhân dân, đặc biệt, hướng quần chúng vào nhiệm vụ chính yếu “Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa”.Phong trào Ba xung kích của Đoàn Thanh niên, Người Phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được các hội viên tham gia tích cực.
- Công tác tuyên giáo trong lĩnh vực văn hóa - xã hội tập trung vào nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục truyền thống cách mạng, xây dựng lý tưởng sống mới bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng.Nhiều thành tích nổi bật của huyện trong giai đoạn này được tuyên truyền, lan tỏa, tạo niềm tin và sự phấn khởi trong nhân dân[2]. Tờ thông tin của huyện được xuất bản là hình thức báo chí cách mạng mới, phổ biến, phản ánh kịp thời tình hình địa phương.Các hoạt động tổ chức sinh hoạt chính trị, kể chuyện truyền thống, chiếu phim tài liệu cách mạng tại các xã, ấp, tuyên truyền qua hệ thống truyền thanh…, góp phần giáo dục thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân về tinh thần yêu nước, lòng biết ơn các thế hệ đi trước.
- Công tác tuyên truyền nhân dân thi đua khôi phục sản xuất đạt nhiểu kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo đã kiên trì đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia sản xuất. Sau ngày giải phóng, huyện Long Thành tập trung ổn định đời sống nhân dân, cấp đất, hỗ trợ sản xuất và sinh hoạt, bố trí định cư cho hơn 16.000 người. Huyện thành lập Đội tháo gỡ bom mìn, xử lý hơn 20.000 quả bom, giải phóng hàng triệu mét vuông đất. Từ đó, các phong trào khai quang, phục hóa, phong trào thi đua sản xuất nông nghiệp của huyện phát triển, đem lại lợi ích và sự tin tưởng của người dân.Các hoạt động chăn nuôi, công nghiệp, thương nghiệp cũng bắt đầu có những chuyển biến khả quan.Các nông trường cao su được tiếp quản, đi vào hoạt động ổn định.Hoạt động của ngành lâm nghiệp đạt thành tích cao trong bảo vệ và khai thác, trồng rừng và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.Hệ thống Ngân hàng nông nghiệp cũng được triển khai.
Như vậy, từ năm 1975 đến 1985, huyện Long Thành đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo cơ sở có tính chất nền tảng cho sự phát triển của địa phương trong tình hình mới. Để đạt được điều đó, công tác tuyên giáo dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy đã giữ vai trò hết sức quan trọng.Nhìn chung, công tác tuyên truyền phục vụ sản xuất, xây dựng đời sống mới, cải tạo xã hội chủ nghĩa, vận động nhân dân thực hiện nghĩa vụ quốc phòng – an ninh, bảo vệ thành quả cách mạng được triển khai sâu rộng. Đội ngũ tuyên huấn viên, báo cáo viên huyện, xã dù còn mỏng về số lượng, hạn chế về phương tiện, nhưng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, bám cơ sở, bám thực tiễn để làm tròn nhiệm vụ “người lính tiên phong” trong thời bình. Công tác tuyên giáo trong giai đoạn này cơ bản đã hoàn thành tốt vai trò ổn định tư tưởng chính trị, củng cố lòng tin, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là tiền đề quan trọng để huyện Long Thành bước vào thời kỳ phát triển mới.
II. GIAI ĐOẠN 1986 – 2025: ĐỔI MỚI TƯ DUY, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, ĐỒNG HÀNH CÙNG PHÁT TRIỂN
Sau khi huyện Long Thành được tái lập vào năm 1994, địa phương bước vào thời kỳ mới với nhiều cơ hội và thách thức.Yêu cầu đặt ra cho ngành Tuyên giáo không chỉ là ổn định tư tưởng, mà còn phải góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn diện trên tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Công tác tuyên giáo chuyển hướng từ “định hướng tinh thần” sang “đồng hành cùng phát triển”, từ truyền thống sang hiện đại, từ thủ công sang ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số.Công tác tuyên giáo cũng từ đó chuyển mình mạnh mẽ, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.Ban Tuyên giáo Huyện ủy được kiện toàn về tổ chức, tăng cường về đội ngũ, chủ động tham mưu cho cấp ủy triển khai đồng bộ các mặt công tác: lý luận chính trị, tuyên truyền, văn hóa – văn nghệ, khoa giáo, lịch sử Đảng, nghiên cứu dư luận xã hội. Nhiều chương trình trọng tâm được triển khai và đạt được những kết quả nổi bật, điển hình như:
- Công tác lý luận chính trị: Tổ chức quán triệt Nghị quyết của Đảng các cấp kịp thời, sáng tạo, đổi mới phương thức tuyên truyền qua các hội nghị, lớp bồi dưỡng trực tuyến, các chuyên đề sinh động. Từ đó, giúp cán bộ, đảng viên nắm vững và vận dụng linh hoạt vào thực tiễn công tác.
- Triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo Bác: Đặc biệt trong 10 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngành Tuyên giáo đã tham mưu nhiều mô hình hay, cách làm hiệu quả như: “Chi bộ không có đảng viên vi phạm”, “Tự soi, tự sửa”, “Nhật ký học và làm theoBác”…
- Tuyên truyền nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội: Chủ động bám sát các chương trình trọng điểm của huyện như xây dựng nông thôn mới nâng cao, thu hút đầu tư, phát triển khu đô thị sân bay, từ đó tổ chức các đợt tuyên truyền chuyên sâu, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong các tầng lớp nhân dân.
- Công tác khoa giáo – dư luận xã hội: Phối hợp nắm bắt, phân tích, dự báo dư luận xã hội, kịp thời tham mưu xử lý tình huống nhạy cảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị. Công tác thông tin đối ngoại, truyền thông chính sách ngày càng hiệu quả.
- Giáo dục truyền thống – công tác lịch sử Đảng: Biên soạn và xuất bản nhiều tập lịch sử Đảng bộ xã, lịch sử cách mạng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Bác Hồ, về lịch sử quê hương – góp phần bồi đắp niềm tự hào trong thế hệ trẻ.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tuyên giáo, từng bước xây dựng nền tảng tuyên truyền số phù hợp với xu thế chuyển đổi số.
Nhìn chung, trãi qua chặng đường 50 năm xây dựng và phát triển,các thế hệ cán bộ tuyên giáo của huyện qua các thời kỳ luôn giữ vững phẩm chất chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, ngày càng am hiểu thực tiễn, biết lắng nghe, thuyết phục và tạo sự lan tỏa tích cực trong xã hội.Công tác tuyên giáo góp phần củng cố sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, tạo nền tảng tư tưởng, tinh thần để toàn huyện bứt phá vươn lên, vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển của dân tộc.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, ngành tuyên giáo huyện Long Thành luôn giữ vững lập trường, nguyên tắc: (1) Kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác tư tưởng, mọi hoạt động tuyên giáo đều phải bám sát sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy, nhất là người đứng đầu, phải bám sát nhiệm vụ chính trị, không để tư tưởng bị “trôi dạt” khỏi quỹ đạo của Đảng. (2) Xác địnhTuyên giáo phải từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà làm; lấy thực tiễn làm cơ sở, lấy nhân dân làm trung tâm, công tác Tuyên giáo không thể xa rời cuộc sống. Cần nói cho dân hiểu, làm cho dân tin, gắn tuyên giáo với đời sống hằng ngày của người dân.Mọi nội dung, phương thức phải gần dân, sát dân, vì dân, góp phần nâng cao dân trí, đồng thuận xã hội. (3) Không ngừng đổi mới, sáng tạotrước yêu cầu ngày càng cao của công tác tư tưởng trong thời đại mới, đội ngũ tuyên giáo phải chủ động cập nhật tri thức, ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực truyền thông chính trị hiện đại.Tuyên giáo thời kỳ mới phải tận dụng tối đa công nghệ số, mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo để nâng cao hiệu quả truyền thông, đặc biệt là với thế hệ trẻ. (4) Công tác tuyên giáo chỉ đạt hiệu quả cao khi có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong hệ thống chính trị, đặc biệt là các lực lượng làm công tác thông tin, văn hóa, khoa giáo, báo chí.Do đó cần phải được triển khai đồng bộ với các ngành, đoàn thể, hệ thống chính trị để tạo sức lan tỏa rộng khắp. (5) Người làm tuyên giáo phải có bản lĩnh, lý luận vững, kỹ năng tốt, sâu sát thực tiễn và biết sáng tạo trong tổ chức hoạt động. Vì vậy, phải luôn quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộtuyên giáo không chỉ giỏi chuyên môn mà còn phải có tâm huyết, bản lĩnh, nhạy bén chính trị, am hiểu thực tiễn và có kỹ năng truyền thông thuyết phục.
50 năm hình thành và phát triển của ngành Tuyên giáo huyện Long Thành là hành trình của sự kiên trì, đổi mới và cống hiến. Trong mỗi chặng đường phát triển của quê hương Long Thành đều in dấu ấn của công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục lý luận cách mạng. Với truyền thống vẻ vang 50 năm đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân Long Thành, ngành Tuyên giáo huyện Long Thành hoàn toàn tin tưởng và quyết tâm tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, vững vàng trên mặt trận tư tưởng – văn hóa, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng đổi mới, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng Long Thành ngày càng phát triển toàn diện, văn minh, hiện đại, xứng đáng là trung tâm động lực phía Đông Nam của tỉnh và của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Huyện ủy
[1] - Hội nghị thành lập Đảng bộ huyện vào tháng 7/1976.
[2]- Điển hình là các thành tích như: Lĩnh vực giáo dục của huyện đạt thành tích với sự biểu dương và ghi nhận từ ngành giáo dục của Trung ương; Ngày 20/10/1978, bốn xã Bình Sơn, Tam An, Phú Hội, Phước An vinh dự đón nhận danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân do Quốc hội và Chủ tịch nước trao tặng; Năm 1985, huyện Long Thành được Hội đồng Bộ trưởng tặng Huân chương Lao động hạng Ba về thành tích thực hiện chính sách thương bình, xã hội.