NHƠN TRẠCH: VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI, TRUYỀN THỐNG

 

Thời điểm 2015, huyện Nhơn Trạch có diện tích tự nhiên là 410,78 km2, có 12 đơn vị hành chính cấp xã: Phước KhánhĐại PhướcLong Tân,  Phú ĐôngPhú Hội (huyện lỵ), Phú ThạnhPhú HữuVĩnh Thanh, Phước AnLong Thọ, Hiệp Phước, Phước Thiền . Dân số năm 2015 là 232.310 người, tỉ lệ nam 45,65%, tỉ lệ nữ 54,35%, đại đa số sống ở vùng nông thôn.  

1. Vị trí địa lý

Huyện Nhơn Trạch nằm ở phía Tây Nam tỉnh Đồng Nai, trải dài từ 106°45’16" đến 107°01’55" kinh độ Đông và từ 10°31’33" đến 10°46’59"vĩ độ Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 km theo tỉnh lộ 25B, có vị trí địa lý: Phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Long Thành; phía Tây giáp quận 7 và huyện Nhà BèThành phố Hồ Chí Minh với ranh giới là sông Nhà Bè; phía Nam và Tây Nam giáp huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh với ranh giới là sông Đồng Tranh và sông Lòng Tàu; phía Đông Nam giáp thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với ranh giới là sông Thị Vải; phía Bắc giáp quận 9, thành phố Hồ Chí Minh với ranh giới là sông Đồng Nai; phía Tây Bắc giáp quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh với ranh giới là sông Đồng Nai.

2. Địa hình, địa mạo

Về địa tầng, địa bàn huyện Nhơn Trạch, thuộc Hệ Trias, thống trung, bậc Anizi, đồng dạng với các vùng phụ hệ tầng dưới như ở Bửu Long. Khảo sát thực tế cho thấy, mặt cắt vùng Nhơn Trạch gồm cuội kết, tảng kết hiển lộ từ Tây Nam Bửu Long đến mép sông Đồng Nai, rõ nét ở Hang Nai. Cuội có kích thước thay đổi từ 3-5-10cm, độ mài tròn trung bình, độ chọn lọc kém, có thành phần đa khoáng: sạn kết tuf andesit, granodiorit – biotit porphyry, granit có biotit hạt vừa, đá phiến sét serisit – silic nhiễm oxyt sắt. Ở vùng Nhơn Trạchcòn có hiện tượng phụ hệ tầng giữa phủ lên phụ hệ tầng dười, biểu hiện bởi mặt cắt có các tập cát kết tuf riolit màu xám có cấu tạo khối rất cứng chắc và thêm nhiều thành phần khoáng chất đặc thù của phụ hệ tầng giữa.

Về địa hình, Nhơn Trạch thuộc loại địa hình tích tụ dạng có nhiều bãi bồi, được cấu tạo bởi nhiều cuội sỏi, cát hoặc cát bột, sét bột bở rời, có khi dày đến một vài mét. Bãi bồi vùng Nhơn Trạch thường thấp, phân bổ giữa hoặc ven lòng sông rạch, lộ rõ giữa mùa khô hoặc khi triều xuống. Đây là nguồn vật liệu dồi dào cho xây dựng.

Về phân vùng địa mạo, Nhơn Trạch thuộc vùng đồng bằng đồi thềm, đồng dạng với cả vùng Biên Hòa – Long Thành. Vùng này có đặc điểm hạ tích tụ và nâng yếu, rửa trôi – xâm thực; tạo thềm bậc IV, III, II và I từ Pleistocen giữa đến Holocen. Quá trình hạ lún được thấy rõ từ Pliocen muộn, được tiếp tục trong Pleistocen sớm. Quá trình nâng bắt đầu từ Pleistocen giữa. Trên vùng phát triển thềm một phía, thềm trẻ hơn, thấp hơn (thềm III, II và I) dịch dần về phía Tây, Tây Nam. Chúng chuyển bậc với nhau qua các đoạn sườn thoải 3-50, chênh cao 5-10m. Hạ lún có xu hướng mạnh dần từ Tây Bắc đến Đông Nam. Ở Nhơn Trạch, thành bề mặt móng đá gốc chìm sâu đến (-50m) và sâu hơn, trầm tích Pliocen – Đệ tứ dày > 55m.

Các bậc thềm tuy có độ cao khác nhau, nhưng lại liên kết với nhau trên cơ sở các bề mặt cùng nguồn gốc, cùng được nâng lên, rửa trôi là chủ yếu và xâm thực. Theo hướng Tây Tây Nam, chúng thấp dần theo góc nghiêng chung < 10. Theo hướng Nam, Đông Nam bề mặt bị chia cắt bởi các thung lũng xâm thực sâu 10-30m, sườn dốc 3-100, cách nhau 5-7-10km. Do vậy, vùng này nền vững, thích hợp để xây dựng và phát triển đô thị, khu công nghiệp[5].

Ngoài ra, dọc theo sông vùng Nhơn Trạchcòn có các trầm tích sông, thường tạo các bãi bồi cao 1-3m, rộng vài mét đến vài trăm mét, gián đoạn hoặc kéo dài liên tục 1-2km. Ở các phần trũng thấp ven sông từ Long Hưng đến Bắc Nhơn Trạchvà Phú Điền còn có trầm tích sông – đầm lầy. Thành phần gồm: bột sét, mùn thực vật, đôi nơi có than bùn màu xám tro, xám tối, bề dầy thay đổi từ 2-5m . Với địa mạo này, vùng Nhơn Trạchthuận lợi cho việc xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp, khu dân cư.

3. Đất đai

Đất đai vùng Nhơn Trạch có địa hình bằng phẳng, độ cao 0 – 20m so mực nước biển, phần lớn có độ dốc < 8 – 15 o. Cấu tạo đất Nhơn Trạch đa phần là đất phù sa cổ có lớp phủ thổ nhưỡng phổ biến là trầm tích Pleistocen muộn gồm các nhóm đất xám (Acrisols) và đất loang lổ (Plinthosols). Nhơn Trạchcũng có hệ trầm tích Holocen bao gồm cát biển, trầm tích đầm lầy biển và phù sa sông suối hình thành các loại đất cát (Arenosols), đất phù sa (Fluvisols) và đất phèn (Thionic Fluvisols).

Nhóm đất phù sa (Fluvisols) chiếm khoảng 4,76% tổng diện tích toàn tỉnh, có ở Biên Hòa, Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn Trạch. Riêng ở Nhơn Trạch, phổ biến ở vùng đồng bằng ven sông rạch, nhất là địa bàn các xã Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Phước An. Vùng đất phổ biến nhóm đất này chịu tác động của thủy triều, có độ chua (PH) từ ít đến vừa và cao tùy theo đất phù sa có giàu mùn hay không; có nơi tùy đất mặn và không mặn mà đất có tầng phèn hay không phèn. Đặc tính nông học của đất phù sa là giàu mùn, đạm, ka li nhưng nghèo lân, nên ở nơi không hoặc ít phèn thuận cho trồng lúa nhiều vụ hoặc trồng cây ăn trái, hoa màu, rau củ. Ơ nơi đất phèn, việc sử dụng đất tùy thuộc vào độ sâu tầng phèn và mức độ ngập mặn. Đất phèn nông có ưu thế trồng lúa nước. Đất phèn sâu có thể trồng lúa, hoa màu vào mùa khô. Đất phèn nông hay sâu đều có thể rửa mặn, nuôi trồng thủy sản.

Nhóm đất Gley (Gleysols) chiếm 4,56% diện tích toàn tỉnh cũng khá phổ biến ở Nhơn Trạch, phân bổ ở vùng đồng bằng thấp, xa sông, nhiều nhất là địa bàn Phước Thiền, Long Tân, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai. Nhóm đất này giàu mùn, ít chua, không nhiễm mặn, có tầng ít phèn và không phèn; có hàm lượng mùn, đạm, lân, kali phù hợp cho trồng lúa nước, hoa màu hoặc lên lip trồng cây dài ngày.

Ngoài ra, Nhơn Trạch còn có các nhóm đất khác đồng dạng như đất ở các vùng Biên Hòa, Long Thành, Vĩnh Cửu, Định Quán, Trảng Bom, Long Khánh. Đất ở Nhơn Trạch có thể dành cho trồng trọt 99%, cho nuôi trồng 1%.

 4. Hệ thống sông ngòi

Các sông, suối ở khu vực Nhơn Trạch cũng giống như hệ thống các sông, suối trong tỉnh, chế độ dòng chảy và quy luật biến đổi khá phù hợp với quy luật chung. Một năm vẫn có hai mùa (mưa, nắng) dòng chảy rõ rệt. Mùa cạn từ tháng 12 năm trước cho đến tháng 5 năm sau. Mùa lũ từ tháng 6 cho đến tháng 11. Mùa lũ thường sớm hơn lưu vực sông Đồng Nai và sông La Ngà 1 tháng. Ba tháng có mực nước và lưu lượng lớn là: tháng 8, 9, 10, lớn nhất thường là tháng 8. Ba tháng có mực nước và lưu lượng nhỏ là: tháng 2, 3, 4, nhỏ nhất là tháng 3.

Lưu lượng phù sa và bùn cát trong sông, suối tập trung chủ yếu vào các tháng mùa lũ và tháng đầu mùa mưa (tháng 5). Các tháng mùa cạn lượng phù sa rất nhỏ, nhiều tháng hầu như bằng 0, như tháng 2, 3, 4, nước sông rất trong, độ đục gần như không có.

Một trong những đặc điểm của vùng Nhơn Trạch là hệ thống sông rạch chằng chịt, chịu ảnh hưởng mạnh bởi chế độ thủy triều vùng cửa sông, đa nguồn nước, gồm nước mặn – nước ngọt – nước lợ.

Đoạn sông Đồng Nai chảy qua địa bàn Nhơn Trạch dân gian gọi là sông Cái, nối tiếp từ Tân Uyên đổ ra của Soài Rạp dài khoảng 143 km, lòng sông rộng từ 1 đến 4,5 km, có chỗ sâu đến 18m, tạo một lưu vực rộng khắp trên địa bàn Nhơn Trạch, trực tiếp là các xã Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh.  

Sông Đồng Nai có nhiều hợp lưu tạo thành hệ thống sông Đồng Nai thuận lợi cho giao thông và giao thương cả vùng trọng điểm Đông Nam thành Phố Hồ Chí Minh. Sông Nhà Bè, sông Sài Gòn hợp lưu phía hữu ngạn sông Đồng Nai, nối Nhơn Trạch với thành phố Hồ Chí Minh chỉ vài mươi phút chèo ghe. Sau khi nhận nước của sông Sài Gòn xuôi xuống Nhà Bè, sông Đồng Nai chia làm hai nhánh: Nhánh phía Tây là sông Soài Rạp chảy ra cửa Soài Rạp; nhánh phía Đông là sông Lòng Tàu  chảy ra vịnh Gành Rái.

Sông Lòng Tàu có tầm sâu trung bình là 15 m, chảy quanh co cắt ngang Rừng Sác trước khi đổ ra Biển Đông. Khi chảy đến xã Phước Khánh, sông Lòng Tàu cũng chia làm hai nhánh. Nhánh phía Tây là sông Đồng Tranh chảy về phía cửa Soài Rạp; nhánh phía Đông tiếp tục mang tên Lòng Tàu chảy xuống Ngã Bảy (khoảng 75 km) nơi sông Dừa đổ vào. Từ Ngã Bảy ra biển, khúc hạ lưu sông này được gọi là sông Ngã Bảy. Đến Cần Giờ, sông Đồng Tranh và sông Ngã Bảy lại hợp lưu rồi đổ ra vịnh Gành Rái.

Hợp lưu với sông Đồng Nai tại địa bàn xã Long Tân có sông Đồng Môn bắt nguồn từ vùng cao thuộc Long Thành vòng vèo qua các gò đồi, nối mạch với các sông suối nhỏ rồi đổ phù sa qua các cánh đồng Phước Thiền, Long Tân. Sông Đồng Môn tuy không rộng, không sâu, không dài lắm nhưng có vai trò như mạch máu nối liền rừng giồng với Rừng Sác, kết nối địa bàn sông nước Nhơn Trạch với vùng rừng núi trung du miệt Long Thành.

Ngoài ra, sông Cái (sông Đồng Nai) còn hợp cùng các chi lưu tạo nên hệ thống sông rạch chằng chịt khắp vùng Nhơn Trạch, gồm những giồng, rạch, tắc, vàm, ngòi, cồn, cù lao gắn với địa danh quen thuộc của người địa phương. Phải nhìn tổng thể hệ thống cù lao, cồn, rạch của cả khu vực này mới thấy hết sắc thái của Nhơn Trạch. Các xã thuộc khu vực có nhiều cồn, cù lao gồm xã Phú Đông có giồng Ông Đông, Phú Thạnh có cù lao Ông Cồn, xã Phước Khánh có rạch Ông Thuộc, xã Phú Hữu có rạch Ông Mai, xã Vĩnh Thanh có ấp Ông Kèo. Theo lời kể của các bô lão địa phương, năm ông: Thuộc, Đông, Cồn, Kèo, Mai là 5 vị tướng lĩnh của triều Nguyễn trấn giữ các đồn bảo tả ngạn sông Cái, có công lao với vùng Nhơn Trạch nên được dân tôn kính, đặt tên cho các cù lao, cồn, rạch gắn liền với đời sống sản xuất, sinh hoạt của người dân địa phương.

 Địa bàn Nhơn Trạch có nhiều cồn, cù lao nổi tiếng; đặc biệt là cù lao Ông Cồn. Sông Đồng Nai đến địa bàn xã Phước Khánh tạo thành hai nhánh như hai cánh tay ôm gọn vùng đất giồng khoảng 780 ha, tạo thành cù lao, dân gian gọi tên là cù lao Ông Cồn.

Cùng với sông Đồng Nai, hệ thống Sông Thị Vải cũng là huyết mạch của địa bàn Nhơn Trạch. Sông Thị Vải bắt nguồn từ suối Cả (khởi nguồn từ cao nguyên An Lộc – Cẩm Tiên, dài khoảng 38 km), chảy theo hường Đông Nam, tổng chiều dài khoảng 76 km, đến địa bàn huyện Long Thành và Nhơn Trạch trở thành ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, đổ ra biển tại vịnh Gành Rái. Thị Vải nối với sông Đồng Tranh bởi sông Ba Doi và sông Gò Gia. Đoạn hạ lưu từ chỗ sông Gò Gia hợp lưu với Thị Vải ra tới biển còn gọi là sông Cái Mép. Đoạn sông Cái Mép có lòng rộng và sâu, thuận cho tàu bè cặp bến, cho nên được qui hoạch thành cụm cảng quốc tế có thể đón tàu có trọng tải chục vạn tấn.

5. Khí hậu

Khí hậu Nhơn Trạch thuộc phương Nam, vùng Gia Định, ứng với quẻ Ly; theo Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hòa Đức: Là vùng gần biển, thấy trước mặt trời mới mọc, thường ấm, bắt đầu mưa vào tháng 3 Âm lịch, mưa chính vào mùa hạ; “mưa to nghiêng vò mà đổ”, cơn mưa to lắm chỉ vài giờ là tạnh, trở lại nắng; tháng 7 có mưa ngâu dầm dề ít ngày, không lạnh; rõ rệt hai mùa mưa nắng. Do khí trời nóng, đất ẩm thấp nên khi mưa, khí biển tác động thành ra sấm chớp, có thể hại chết người và vật.

Nhơn Trạch “âm ít, dương nhiều”, thường nhiều gió Nam; hiếm khi giông bão, ít sương móc; thi thoảng có hiện tượng gió lốc xoáy gọi là “rồng hút nước”.

Nước là mạch máu của đất. Nhơn Trạch giàu nguồn nước trong lòng đất, phun trào nhiều nơi gọi là nước mạch, nhiều chỗ phun mạnh gọi là “mạch Bà”. Nước sông rạch gắn với biển tác động đến đời sống. Do khí đưa đẩy, buổi sáng nước lên gọi là triều, buổi chiều nước xuống gọi là tịch, gọi chung là thủy triều. Thủy triều tương ứng mật thiết với mặt trăng theo chu kỳ thời tiết được gọi là triều tín. Khi nước lớn thường có gió, nước đứng thì gió lặng. Thông thường, sau ngày mồng một và 2 – 3 ngày sau rằm, nước lên, gió mạnh; sau ngày thượng huyền (ngày 8,9) và ngày hạ huyền (22,23), nước rút dần trong hai, ba ngày, gió cũng dịu dần. Thủy triều ở Nhơn Trạch cũng như ở vùng Gia Định có khác với nhiều nơi ở chỗ: Mỗi tháng có 2 hoặc 3 ngày nước không lớn ròng gọi là “nước ươn”; mùa gần Tết có đến 3, 4 ngày. Trong tháng 8 và tháng 9, thủy triều lớn khác thường, tiết hạ chí lớn vào ban ngày, tiết đông chí lớn vào ban đêm. Dân gắn với sông nước thường theo lệ con nước lớn ròng mà tổ chức sinh hoạt: Lấy khi nước lớn làm thủy đầu gọi là nước rong, khi nước xuống mức thấp nhất là thủy vĩ, gọi là nước kém. Nước rong nhiều cá tôm, nước kém ít tôm cá, theo đó mà hành nghề đánh bắt. Lúc giao thời giữa mùa thu và mùa hạ, có lúc con nước lớn buổi mai chưa xuống mà con nước ròng buổi chiều đã nối tiếp, thêm có gió Đông Nam đẩy mạnh nước biển dâng lên, ấy là “đạp triều”, dân địa phương gọi là nước “ươn rong”. Do đất đai thường ẩm thấp, thịnh dương khí nên con người thường khô da, nhiều mồ hôi; gặp khi “trái gió trở trời”, dễ bị sốt rét, phong thấp, cảm mạo.

Theo Địa chí Đồng Nai, khí hậu ở Nhơn Trạch mang đặc điểm chung của tỉnh Đồng Nai, thuộc “khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo”, có độ dài ban ngày ít thay đổi, trung bình 12 giờ 47 phút/ ngày; thời gian nắng trung bình 4 – 9,5 giờ ngày (chiếm 45 – 65% độ dài ban ngày), cả năm có khoảng 2.500 đến 2.860 giờ nắng; bức xạ luôn dương, trị số hàng năm 70 – 74 kkcal/cm2. Hằng năm, Nhơn Trạch chịu tác động của 3 hệ thống gió mùa Châu Á, trong đó rõ rệt nhất là gió mùa hạ (gió mùa Tây Nam), gió mùa Ấn Độ Dương (cũng thuộc gió mùa Tây Nam), gió mùa Nam Thái Bình Dương. Hệ thống gió mùa này tác động làm cho thời tiết ở Nhơn Trạch thiên về nóng, ẩm, có mưa nhiều đầu mùa, thi thoảng có giông nhẹ, ít bão, không lạnh. Ở Nhơn Trạch, khí hậu 4 mùa không rõ rệt như ở xứ Bắc, xứ Trung. Có thể phân biệt thành hai mùa: Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 (hoặc tháng 4 năm sau), mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Lượng mưa trung bình thường lớn hơn 100 mm, có khi dưới 100 mm. Nhiệt độ trung bình cao nhất trong mùa khô, khoảng 31,1 – 32,1 oC; thấp nhất trong mùa mưa, khoảng 22,9 – 24,0 oC. Biên độ giữa nhiệt độ cao và thấp không nhiều.

Khí hậu như vậy là ôn hòa, tốt cho vạn vật; thuận cho con người sinh sống và phát triển sản xuất.

6. Sinh cảnh, động - thực vật

Điều kiện tự nhiên về địa tầng, địa mạo, đất đai khí hậu đã tạo cho Nhơn Trạch sinh cảnh đa dạng với hệ động thực vật phong phú mang đặc trưng của miền sông nước ngập mặn “rừng giồng nối liền Rừng Sác”.

Sinh cảnh, động thực vật ở Nhơn Trạch có đủ biểu hiện của hệ sinh thái chung của toàn tỉnh thuộc vùng thấp, ẩm, nhiệt đới; nhưng Nhơn Trạch có đặc trưng của sinh cảnh vùng ngập mặn nối liền với sinh cảnh đất giồng trung du. Theo đó, động thực vật gồm đủ các nhóm phổ quát và nhóm có tính đặc thù. Hiện Nhơn Trạch chưa có bản thống kê về động thực vật đặc thù ở địa phương, nhưng có thể hình dung bức tranh về động thực vật ở Nhơn Trạch mang đường nét chung toàn tỉnh và màu sắc đậm nét ở địa phương.

Về động vật, có nhóm động vật quí hiếm, nguồn gien dự trữ quan trọng cần bảo tồn, nghiên cứu khoa học, đặc biệt là cá sấu. Có nhóm động vật phổ quát, có thể săn bắt phục vụ đời sống hoặc làm dược liệu (nai, heo rừng, nhím, khỉ, kỳ đà, chim, rắn); đặc biệt là các loài thủy sinh vùng ngập mặn như cá nâu, cá dứa, vọp, chem chép, sam, tôm, cua … Nhiều động vật không xương thuộc hệ côn trùng cũng rất phong phú, ấn tượng trong đời sống (như đom đóm, kiến, mối …).

Thực vật ở Nhơn Trạch cũng đa hệ, đa tầng, đa dạng; đáng kể là thảm thực vật ven sông rạch thích ứng với nước mặn – nước ngọt – nước lợ theo nhịp thủy triều. Các hệ thực vật tự nhiên ở Nhơn Trạch phân bổ theo hệ sinh thái rừng. Có hai hệ rừng ở Nhơn Trạch, dân gian gọi là “rừng giồng và Rừng Sác”.

Rừng giồng bao quát ở vùng cao khắp các xã ở Nhơn Trạch, nhất là các xã Phước Thiền, Long Tân, Hiệp Phước, Long Thọ, Phước An. Một bộ phận rừng giồng trong kháng chiến được gọi là “khu Lòng Chảo”.  Rừng giồng Nhơn Trạch thuộc hệ rừng lá rộng thường xanh ẩm nhiệt đới, đặc điểm là cây họ dầu chiếm ưu thế, vượt tán, thành chòm, thành cụm hoặc lán; gồm nhiều cây “họ hàng” như: Dầu song nàng, dầu rái, sao đen, chai, vên vên. Bên cạch các loài cây họ dầu còn có các cây gỗ mọc hỗn giao, có loại quí hiếm như gõ, trắc, cẩm lai, giáng hương; thường là các loài cây phổ quát như bình linh, bằng lăng, trâm.

Rừng giồng Nhơn Trạch có cấu trúc phức hợp, nhiều tầng, ít nhất là 5 tầng: Tầng vượt tán (gồm cây gỗ trên 40 m); tầng ưu thế sinh thái (cây gỗ cao từ 20 – 30 m); tầng dưới tán (gồm cây mọc rải dưới tán rừng, cao dưới 15 m); tầng cây bụi (gồm các loại cây thấp nhỏ, cao 2 – 8 m); tầng thảm tươi (tầng thấp nhất, gồm cây, cỏ dưới 2 m). Trong mỗi tầng rừng đều có các loài phụ sinh họ đậu, họ dây leo nương theo cây cỏ cùng phát triển. Ở tầng thảm tươi, một số nơi, dân địa phương còn gieo trồng thêm thơm dứa, trà và một số loại cây khác để khai thác, sử dụng.

Rừng Sác Nhơn Trạch thuộc rừng ngập mặn cùng hệ sinh thái đặc biệt ở vùng cửa sông Đồng Nai chảy ra biển, như ở Cần Giờ, Vũng Tàu. Rừng Sác hình thành do các nhánh sông trước khi hợp lưu chia cắt các vùng đất thành nhiều đảo nhỏ, chịu tác động của thủy triều lên xuống, đất bùn lầy lội, mặn nhiều, nên chỉ phát triển các loài cây phù hợp đất nhiễm mặn. Ưu thế của Rừng Sác là cây đước. Đước ở Rừng Sác Nhơn Trạch không lớn như ở Bến Tre, Cà Mau nhưng đước mọc dày đặc, bịt bùng, hợp thành chòm, lán, cùng các cây khác thành các tổ hợp: Đước – bần, đước – vẹt – mấm, đước – dà vôi – mấm. Cùng với đước, còn có các loại cây phù hợp với địa thế cao, không thường xuyên ngập mặn, như dừa nước, chà là, ráng.

Rừng Sác ở Nhơn Trạch có tác dụng làm tăng chất lượng môi trường nước, đem lại nguồn thức ăn dồi dào cho cá tôm, chồn, khỉ cùng các loài chim; đóng vai trò lưu chuyển các dòng dinh dưỡng nội địa với sông biển, đặc biệt là “vệ sĩ” phòng hộ chống xâm thực và cố định bãi bồi ven sông biển. Trịnh Hoài Đức có mô tả Rừng Sác trong Gia ĐịnhThành Thông chí[13]: Bên những dòng sông bao la tận chân trời lại có những hang động bịt bùng thế giới riêng một cõi.

Với đặc điểm như thế, Rừng Sác đã trở thành căn cứ an toàn trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

7. Vị trí chiến lược

Với điều kiện tự nhiên, địa thế cùng hệ thống sông rạch thuận cho phát triển kinh tế và dân sinh, Nhơn Trạch không chỉ giàu đẹp mà còn là địa bàn có vị trí chiến lược cho việc thiết lập hệ thống quản lý.

Vị trí của Nhơn Trạch như là điểm giao 3 góc của tam giác Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu. Rõ hơn, Nhơn Trạch là trung tâm kết nối của vùng động lực Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa, Long Thành – Bình Dương -  Bà Rịa Vũng Tàu -  Long An; bằng đường biển, đường sông, đường bộ, đường hàng không đều thuận lợi. Xưa có lũy Phước Tứ nối miệt sông Đồng Môn với vùng đất Bưng Nghệ có di tích Bàu Thành (hiện còn di tích).  Nhơn Trạch cùng Long Thành cặp theo Quốc lộ 15 nối huyết mạch xa lộ Biên Hòa với Bà Rịa Vũng Tàu, cũng là nối vùng sông rạch với miền rừng bán sơn địa. Tỉnh lộ 19 nối với tỉnh lộ 17 tại ngã ba Phước Thiền chạy ra khu vực xã Đại Phước tạo ra khu Lòng Chảo nối tiếp với Rừng Sác mênh mông, ôm gọn sông Lòng Tàu, thông với Cần Giờ ra biển khơi, tiếp cận hải phận quốc tế. Như vậy, Nhơn Trạch như là trái tim nối các huyết mạch đồng thời là cuống họng trọng huyệt của trung tâm đầu não Sài Gòn. Vậy nên, chính quyền ngoại xâm Pháp và Mỹ đều xem Nhơn Trạch là trọng địa, tập trung nơi đây binh lực hiện đại nhất với quyết tâm cao nhất, càn quét nhiều nhất để bảo vệ cơ quan đầu não. Các căn cứ quân sự lớn với phương tiện chiến tranh khổng lồ được xây dựng ở Thành Tuy Hạ, Tổng kho Long Bình, Căn cứ Nước Trong, cụm pháo Bến Sắn, Chi Khu Nhơn Trạch, Chi khu Long Thành, các trường sĩ quan, thiết giáp, biệt kích và hệ thống tàu chiến dày đặc sông Lòng Tàu cốt để bao vây, bóp nghẹt phong trào cách mạng Nhơn Trạch, chia cắt với Long Thành và mặt trận Đông Nam Bộ. Cũng chính vì vậy, Đảng chọn Nhơn Trạch làm địa bàn chiến lược, lãnh đạo xây dựng phong trào cách mạng đấu tranh quyết liệt làm thất bại mọi âm mưu của địch, bảo vệ quê hương, góp phần cho thắng lợi chung. Cách mạng cũng xây dựng chiến khu Phước An, Phước Thái, Phú Mỹ (thời chống Pháp), đặc khu Rừng Sác, khu Lòng Chảo; tập trung huy động các lực lượng vũ trang tinh nhuệ gồm chủ lực miền, tỉnh, địa phương cùng dân quân du kích phối hợp chiến đấu, đánh thắng quân thù.

Điều kiện tự nhiên như thế đã tạo cho Nhơn Trạch sắc thái riêng trong biểu hiện chung của Biên Hòa – Đồng Nai ở vùng Đông Nam Bộ. Nhơn Trạch là vùng đất đa hệ về sinh thái, có địa thế trung chuyển trong kết nối vùng, thuận lợi về sản xuất và giao thương, đắc địa về an ninh quốc phòng, nhiều lợi thế trong xây dựng hạ tầng phát triển công nghiệp. Có thể gọi Nhơn Trạch là vùng đất có ưu thế dịa kinh tế” và “địa chính trị”.


[1] Thành lập thị trấn Hiệp Phước theo Nghị quyết 694/NQ-UBTVQH14 ngày 10.5.2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14. Theo đó, thị trấn Hiệp Phước có diện tích 18,83 km2, dân số hơn 57.000 người.

[2] Theo Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai 2017, Nhà Xuất bản Thống Kê 2018.

3. Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 8, trang 45.

([5] ) Địa chí Đồng Nai, tập II, trang 64 - 65, NXB Đồng Nai năm 2001

[6].  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 23

[7] . Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 143 – 157.

[8] . Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 126-127

[9] Đã được qui hoạch phát triển khu du lịch sinh thái.

[10] “Gia Định Thành Thông chí”, Tập I “Tinh dã chí”, Trịnh Hoài Đức, bản dịch của Lý Việt Dũng, NXB Đồng Nai, 2005.

[11] “Địa chí Đồng Nai”, Tập II, trang 73 – 98, NXB Đồng Nai, 2001.

[12] Lời mở đầu Văn bia ở Đền thờ Liệt sĩ Nhơn Trạch.

[13] Trịnh Hoài Đức, “Gia Định thành Thông chí”, Tập II, bản dịch của Lý Việt Dũng, NXB Đồng Nai, 2005.

 

  • Đảng viên 94 tuổi trọn lòng với Đảng, với Dân

    Đảng viên 94 tuổi trọn lòng với Đảng, với Dân

  • Chương trình "Trao gửi yêu thương- Tiếp bước đến trường"

    Chương trình "Trao gửi yêu thương- Tiếp bước đến trường"

  • Huyện Nhơn Trạch hạ quyết tâm giao nhận quân năm 2025

    Huyện Nhơn Trạch hạ quyết tâm giao nhận quân năm 2025

  • Sôi nổi Hội thi “Dân vận khéo” huyện Nhơn Trạch lần thứ I – Năm 2024

    Sôi nổi Hội thi “Dân vận khéo” huyện Nhơn Trạch lần thứ I – Năm 2024

  • THĂM HỎI TẶNG QUÀ GIA ĐÌNH CHÍNH SÁCH NHÂN NGÀY THƯƠNG BINH – LIỆT SỸ 27/7

    THĂM HỎI TẶNG QUÀ GIA ĐÌNH CHÍNH SÁCH NHÂN NGÀY THƯƠNG BINH – LIỆT SỸ 27/7

  • Hôm nay:   190
  • Tháng hiện tại:   190
  • Tổng lượt truy cập:   135752