KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HUYỆN VĨNH CỬU
Huyện Vĩnh Cửu nằm ở tả ngạn sông Đồng Nai, có diện tích 109.086,82 ha, dân số hơn 170.000 người, có 12 đơn vị hành chính gồm: 11 xã và 01 thị trấn. Về địa thế, huyện Vĩnh Cửu như một bán cù lao với sông Đồng Nai và sông Bé bao bọc từ hướng Tây Nam lên Đông Bắc. Ngoài ra, huyện Vĩnh Cửu còn có hồ thủy điện Trị An tạo thành nhiều đảo lớn nhỏ (hai đảo lớn là Đồng Trường và Đảo Ó), tạo thành một cảnh quan sinh thái và môi trường phù hợp với việc khai thác du lịch, có nhà máy Thuỷ điện Trị An một công trình thế kỷ, đã đi vào hoạt động với công suất 400Mw, điện lượng 1.760 Kw/h là biểu tượng rực rỡ của ý chí Việt Nam, là bài ca bất hủ của tình hữu nghị Việt Nam- Liên Xô. Đây là công trình thủy điện lớn ở miền Nam, đảm bảo nguồn điện cung cấp cho các tỉnh, thành phía Nam.
Trên địa bàn huyện có Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai (KBT) được thành lập năm 2004, trên cơ sở sáp nhập 5 đơn vị, gồm: lâm trường Mã Đà, Hiếu Liêm, Vĩnh An; Ban Quản lý di tích Chiến khu Đ và Trung tâm Thủy sản Đồng Nai. Tổng diện tích KBT là 100.303 ha, trong đó diện tích rừng, đất rừng và di tích là 67.903 ha, hồ Trị An là 32.400 ha. KBT là vùng lõi của Khu Dự trữ Sinh quyển Đồng Nai.
Huyện Vĩnh Cửu có 3 di tích được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia gồm: di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (1961 - 1962) theo Quyết định số 02/QĐ-BVHTT ngày 19/01/2001; di tích Căn cứ Khu ủy miền Đông Nam Bộ (1962 - 1967) theo Quyết định số 3744/QĐ-BVHTT ngày 29/11/1997 và di tích Địa đạo Suối Linh (1962 - 1967) theo Quyết định số 61-QĐ/BVHTT ngày 13/9/1999. Căn cứ cách mạng Chiến khu Đ và vùng rừng núi thuộc địa giới huyện Vĩnh Cửu từ Hiếu Liêm, Mã Đà, Vĩnh An trải dài giáp rừng quốc gia Nam Cát Tiên là vùng rừng tái sinh đang được tôn tạo, giữ gìn, thu hút nhiều người du khảo và tìm hiểu về lịch sử Cách mạng. Xã Phú Lý hiện nay có hơn 225 hộ người Châu Ro với 810 nhân khẩu, có nhiều thành tích trong kháng chiến, hiện còn lưu truyền nhiều giá trị văn hóa mang bản sắc của một tộc người bản địa ở Đông Nam Bộ.
1. Lịch sử hình thành
Lịch sử địa lý huyện Vĩnh Cửu gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của tỉnh Biên Hoà Đồng Nai trên 300 năm.
Người Việt có mặt trên đất Vĩnh Cửu có lẽ vào thế kỷ 17. Họ là những người nông dân phản kháng sự áp bức của chế độ phong kiến và chống đối chiến tranh của hai tập đoàn Trịnh (phía Bắc) và Nguyễn (phía Nam), nên đã tìm về phía Nam để sinh sống. Từ Mô Xoài (Bà Rịa), người Việt có khi đi lẻ tẻ, khi đi thành từng nhóm đã theo sông Lòng Tàu rồi ngược sông Đồng Nai, và cuối cùng tìm được mảnh đất phì nhiêu ven sông Đồng Nai để định cư và canh tác. Địa điểm đầu tiên là Bến Cá[1] cùng với Cù Lao Phố. Vùng Bến Cá là một trong những địa phương sớm có người Việt đến lập làng, khai phá.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, vùng đất Vĩnh Cửu có nhiều tên gọi và địa giới hành chính thay đổi.
- Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phía Nam nhằm thiết lập bộ máy quản lý hành chính, đưa vùng đất mới ở phương Nam vào lãnh thổ nước Đại Việt. Ông lấy xứ Đồng Nai đặt làm phủ Gia Định gồm hai huyện Tân Bình có dinh Phiên Trấn và huyện Phước Long có dinh Trấn Biên.
- Năm 1808, vua Gia Long (Nguyễn Ánh) đổi tên đất Nam Bộ từ phủ thành Gia Định thành. Dinh Trấn Biên thành trấn Biên Hòa, huyện Phước Long thăng lên phủ có 4 huyện là Long Thành, Bình An, Phước Chánh và Phước An. Huyện Phước Chánh bao gồm cả vùng đất ngày nay thuộc huyện Vĩnh Cửu. Theo sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (viết năm 1820) huyện Phước Chánh có hai tổng Phước Vinh (46 thôn) và Chánh Mỹ (36 thôn). Huyện Vĩnh Cửu là vùng đất thuộc tổng Phước Vinh.
Năm 1836, vua Minh Mạng cho lập địa bạ các tỉnh để quản lý đất đai. Theo địa bạ, huyện Phước Chánh từ 2 tổng tách thành 6 tổng([2]). Địa bàn huyện quận Châu Thành (Vĩnh Cửu ngày nay) thuộc hai tổng Chánh Mỹ Trung và Chánh Mỹ Hạ.
- Từ 1945 đến 1948, huyện Vĩnh Cửu thuộc quận Châu Thành
- Từ năm 1948, Tỉnh uỷ Biên Hoà quyết định thành lập huyện Vĩnh Cửu.
- Năm 1985, huyện Vĩnh Cửu đổi thành thị xã Vĩnh An, địa giới hành chính bao gồm hai lâm trường Mã Đà, Hiếu Liêm, 2 phường Trị An và Cây Gáo cùng 11 xã: Bình Hòa, Bình Phước, Tân Triều, Bình Ý, Lợi Hòa, Bình Thạnh, Tân Phú, Bình Long, Thiện Tân, Tân Định, Đại An.
- Ngày 29-8-1994, Chính phủ ra Nghị định số 109/NĐ-CP, thành lập lại huyện Vĩnh Cửu gồm: thị trấn Vĩnh An và 9 xã là Bình Hòa, Bình Lợi (Bình Long - Lợi Hòa), Phú Lý, Tân An (Đại An - Tân Định), Tân Bình (Tân Triều - Bình Ý - Bình Phước), Thạnh Phú (Bình Thạnh - Tân Phú), Thiện Tân, Trị An (phường Trị An), Vĩnh Tân (phường Cây Gáo).
- Ngày 13 tháng 3 năm 2003 Chính phủ ra Nghị định 25/2003/NĐ-CP về thành lập xã Mã Đà, xã Hiếu Liêm.
- Ngày 28 tháng 9 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ra Nghị quyết về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của Tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2023-2025. Trong đó, Huyện Vĩnh Cửu sáp nhập 02 xã Hiếu Liêm và xã Trị An lấy tên xã Trị An, sáp nhập 02 xã Bình Hòa và Tân Bình lấy tên xã Tân Bình.
- Hiện nay, địa giới hành chính của huyện gồm 01 thị trấn (Vĩnh An) và 09 xã (Tân Bình, Bình Lợi, Thạnh Phú, Thiện Tân, Tân An, Trị An, Mã Đà, Vĩnh Tân, Phú Lý).
2. Đặc điểm dân cư
Vĩnh Cửu là địa bàn cư trú lâu đời của người cổ xưa. Trong quá trình khai khẩn đất làm ruộng, rẫy, nhiều người dân ở Bình Phước, Tân Triều, Bình Thạnh, Thiện Tân phát hiện những di vật khảo cổ bằng đá như rìu đá, rìu có vai, rìu bôn tứ giác và nhiều mảnh gốm, sứ. Những phát hiện này có thể cho biết rằng cách đây trên dưới 4000 năm, người xưa đã đến cư trú trên vùng đất này, cùng nằm trong hệ thống của nền văn minh Đồng Nai.
Nhân dân huyện Vĩnh Cửu mang tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ông bà, nhiều lễ nghi như cưới hỏi, tang lễ,... còn giữ được tập tục truyền thống như nhân dân ở Nam Bộ, nhưng có đơn giản hơn, phù hợp với cuộc sống mới. Bên cạnh đó, lưu dân Việt từ miền Trung, miền Bắc vào, vốn hoài niệm về quê cha đất tổ, khi vào Vĩnh Cửu, với tinh thần đoàn kết tương trợ, từ đó hình thành tín ngưỡng gắn với cộng đồng xã hội xoay quanh việc xây dựng thờ cúng ở đình, miếu. Đình, miếu ở Vĩnh Cửu với ý nghĩa đó không chỉ là nơi thờ cúng, tế tự, mà còn là nơi diễn ra những sinh hoạt tinh thần mang tính cộng đồng. Hầu hết các xã trong huyện Vĩnh Cửu đều có đình làng, đặc biệt như xã Tân Bình có đến 12 đình. Hầu hết đình thờ những vị phúc thần, Thành hoàng bổn cảnh, hoặc những anh hùng dân tộc có công với dân tộc, đất nước. Mỗi đình hàng năm đều có Lễ Kỳ yên riêng.
3. Truyền thống đấu tranh cách mạng
Vĩnh Cửu là vùng đất mới, dân cư tụ về từ nhiều địa phương, tuyệt đại bộ phận là những người nông dân nghèo khổ cần cù, yêu tự do, phải luôn đối mặt với lam sơn chướng khí, thiên nhiên khắc nghiệt, thú dữ. Họ mang theo truyền thống dân tộc vào vùng đất mới cộng với quá trình thực tiễn đấu tranh để sinh tồn đã góp phần định hình tính cách riêng đáng quý, là tình yêu quê hương, ý chí kiên cường bất khuất, chống áp bức bất công, tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết tương thân tương ái, trung thực, khẳng khái...Chính những đặc điểm truyền thống, tính cách đó đã góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần yêu nước, chiến đấu bền bỉ, quật cường trong suốt cuộc trường chinh chống các thế lực ngoại xâm và bọn tay sai bán nước.
- Dấu ấn đầu tiên đáng tự hào chính là chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập trên mảnh đất này – Chi bộ Bình Phước, Tân triều 2/1935 do đồng chí Hoàng Minh Châu làm Bí thư, đồng chí Tư Phan làm Phó bí thư, gồm các đảng viên Lưu Văn Văn, Lưu Văn Viết, Quách Tỷ, Quách Sanh, Trần Minh Triết. Đây là chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở quận Châu Thành và tỉnh Biên Hòa, là hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng ở tỉnh và là nòng cốt để xây dựng Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa.
- Trong những năm 30 của thế kỷ 20, huyện Vĩnh Cửu (lúc đó là quận Châu Thành, Biên Hòa) là cái nôi của phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939), dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã dấy lên phong trào đấu tranh sôi nổi, là bước tập dượt quan trọng để nâng cao nhận thức cách mạng cho nhân dân.
- Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Vĩnh Cửu có vị trí chiến lược quan trọng là địa bàn trọng điểm của chiến khu D, Trung ương cục và Khu ủy Miền Đông Nam Bộ, là cửa ngõ án ngữ bảo vệ căn cứ Chiến khu Đ, và đường hành lang vận chuyển hàng chiến lược của cách mạng từ Biển Bình, Châu Phước Bửu, Xuyên Mộc Bà Rịa về Biên Hoà (Vĩnh Cửu), Chiến khu Đ - miền Đông về Chiến khu Dương Minh Châu -Tây Ninh phục vụ cho chiến trường miến Nam. Do đó, địch tập trung lực lượng và áp dụng các thủ đoạn thâm độc nhằm biến Vĩnh Cửu thành vùng trắng, làm mất địa bàn của cách mạng, cắt đứt mối liên hệ giữa kháng chiến với quần chúng nhân dân. Nhưng Vĩnh cửu luôn có chỗ dựa vững chắc là nhân dân có truyền thống cách mạng, có Huyện ủy, chi bộ, đảng viên một lòng một dạ vì sự nghiệp cách mạng; dựa vào địa hình, địa vật quen thuộc và thuận lợi, nhất là được nhân dân hết lòng chở che, đùm bọc, Đảng bộ và quân dân huyện Vĩnh Cửu đã kiên cường bám trụ địa bàn, phát huy tinh thần tự lực tự cường, sáng tạo trong chiến đấu, kết hợp lực lượng vũ trang địa phương với chủ lực để đấu tranh đánh địch; nhân dân vừa trực tiếp cầm súng đánh giặc, vừa cung cấp sức người, sức của cho các hoạt động kháng chiến toàn dân toàn diện của huyện và của tỉnh. Nhân dân Vĩnh Cửu có mặt trong tất cả các hoạt động chính trị - vũ trang trong lòng địch, nuôi giấu chở che cán bộ, chăm sóc bộ đội, thương binh, nỗ lực vượt khó khăn, góp phần cùng quân dân cả nước làm nên chiến thắng lịch sử 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Với những hy sinh, đóng góp và chiến công vẻ vang đó, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, 07 xã, 01 đội du kích và 02 cá nhân đã được tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, 86 bà mẹ đã được phong tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và hàng trăm tập thể, cá nhân được nhận huân chương, huy chương và các phần thưởng cao quý khác của Đảng, Nhà nước trao tặng.
4. Quá trình hình thành và phát triển của đảng bộ Huyện Vĩnh Cửu (từ 1975 đến nay)
Phát huy truyền thống của cha, anh, từ mảnh đất bị chiến tranh tàn phá ác liệt, diện tích bị hoang hoá nhiều, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Sau gần 50 năm cùng với sự thay đổi của đất nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Vĩnh Cửu đã không ngừng nỗ lực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và sự chung sức đồng lòng của các tầng lớn nhân dân đã đạt được những thành quả tốt đẹp.
4.1. Xây dựng chính quyền cách mạng, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân và khôi phục phát triển sản xuất (1975-1985)
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy, Ủy ban quân quản huyện Vĩnh Cửu được thành lập. Đến cuối năm 1975, Ủy ban quân quản từ huyện xuống xã được chuyển thành Ủy ban nhân dân cách mạng và hệ thống chính trị của huyện được hình thành với nhiệm vụ lãnh đạo tuyên truyền, giáo dục nhân dân chống mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, song song với việc tham gia lao động sản xuất, xây dựng lại quê hương Vĩnh Cửu.
Từ năm 1975 đến năm 1985, đảng bộ huyện qua 3 kỳ Đại hội. Trong từng nhiệm kỳ đại hội, Đảng bộ tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, không ngừng xây dựng khối đoàn kết trong nội bộ Đảng, lãnh đạo chỉ đạo phát triển huyện trên mọi phương diện.Từ mảnh đất bị chiến tranh tàn phá ác liệt, diện tích bị hoang hoá nhiều, người thất nghiệp đông, trong 10 năm (1975 - 1985), huyện đã tạo được những bước tiến khá và có mặt vượt bậc. Năm 1975, diện tích gieo trồng chỉ có 2.532ha, đến năm 1985 huyện có 8.951 ha gieo trồng, tăng hơn 300%. Năng suất bình quân từ 1,6 tấn/ha năm 1976 đã tăng lên 4 tấn/ha năm 1984. Người nông dân làm ăn cá thể đã trở thành người làm chủ tập thể trong 103 tập đoàn sản xuất và 1 hợp tác xã. Lương thực bình quân đầu người từ 175kg lên 457kg. Sự nghiệp phát triển giáo dục, y tế, văn hóa xã hội,... cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện năm 1985 so với những năm 1975, 1976 đều phát triển lớn. Đội ngũ đảng viên huyện từ 108 đảng viên (10 chi bộ) đến cuối năm 1984 đã lên hơn 300 đảng viên. Phong trào quần chúng được phát triển bằng nhiều hình thức, trong đó Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Liên hiệp Nông dân tập thể, Mặt trận làm nòng cốt. Thông qua phong trào, các đoàn thể lại được củng cố một bước, gắn chặt với nhiệm vụ chính trị của địa phương.
4.2. Huyện vĩnh cửu trong 20 năm thực hiện đổi mới (1986-2005).
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã không ngừng phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn thử thách, tạo ra bước phát triển vượt bậc về kinh tế và xã hội, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thực hiện chương trình của tỉnh Đồng Nai về tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống người dân vùng nông thôn.
Trong giai đoạn này đảng bộ huyện qua 4 kỳ Đại hội (Đại hội lần thứ IV-VII), với sự quyết tâm và nỗ lực, Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân Vĩnh Cửu đã từng bước vượt qua những khó khăn, thử thách để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội từng nhiệm kỳ của BCH Đảng bộ huyện đã đề ra. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tăng đáng kể đã tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển như công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng 9,39%; nông, lâm nghiệp tăng 4,55% và thương mại - dịch vụ tăng 12% Giáo dục có chuyển biến tích cực, tỉ lệ học sinh huy động ra lớp ở các cấp học đạt 98,5% so với trong độ tuổi, trong đó trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%, trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo đạt 85%; cơ sở vật chất được đầu tư theo hướng kiên cố hóa, đã có 3 trường đạt chuẩn quốc gia; 23,3% trường được xây dựng kiên cố.
Đội ngũ đảng viên phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, đến tháng 8/2005 toàn Đảng bộ có 1.674 đảng viên, sinh hoạt ở 51 tổ chức cơ sở đảng; trong đó, đảng viên nữ 454 đ/c, đảng viên dự bị 211 đ/c. Công tác phát triển đảng viên được các cấp ủy đặc biệt quan tâm, căn cứ Nghị quyết đại hội VII của huyện, hàng năm các cấp ủy cơ sở đều xây dựng chỉ tiêu phát triển đảng, do đó từ 2000 đến 2005 công tác phát triển đảng có bước chuyển biến mạnh mẽ, kết nạp được 560 đảng viên mới (đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra).
4.3. Vĩnh cửu trên con đường hội nhập và phát triển kinh tế -xã hội (2005-nay)
Từ năm 2005 đến nay, đảng bộ huyện qua 4 kỳ Đại hội. Huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng đã đề ra. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao. Phong trào TDĐKXDĐSVH luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy và sự hưởng ứng mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, tạo thành phong trào thi đua sôi nổi, góp phần từng bước xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; giữ vững quốc phòng, an ninh; tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn huyện. Đúng vào dịp kỷ niệm 70 năm thành lập huyện, ngày 22/3/2018, Đảng bộ và nhân dân huyện Vĩnh Cửu vô cùng vui mừng, phấn khởi được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 326/QĐ-TTg công nhận huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đạt chuẩn Nông thôn mới năm 2017.
Thành tựu mà huyện Vĩnh Cửu đạt được luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Vĩnh Cửu. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Cửu, tiếp tục phát huy giá trị truyền thống quý báu kết tinh từ máu xương, công sức, trí tuệ, bản lĩnh của bao lớp cha anh và nhân dân Vĩnh Cửu, với tiềm năng và thế mạnh, với kinh nghiệm và bản lĩnh của các cấp ủy Đảng, hoàn toàn có đủ cơ sở để vững tin rằng, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Cửu hôm nay sẽ tiếp tục lập nên những thành tựu mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, góp phần làm cho Vĩnh Cửu ngày càng văn minh, giàu đẹp hơn./.
[1] Theo Làng Bến Cá xưa và nay của Diệp Đình Hoa và Phan Đình Dũng, Nxb Đồng Nai 1998 trang 17 thì: “Địa danh này có thể đã hình thành từ thế kỷ XVII với sự định cư của người Việt”. “... những con người ở đây vẫn giữ được một địa danh Bến Cá để ghi nhận quá trình phát triển của mình”.
[2] Sáu tổng là Chánh Mỹ Thượng, Chánh Mỹ Trung, Chánh Mỹ Hạ, Phước Vinh Thượng, Phước Vinh Trung, Phước Vinh Hạ.