I. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ, KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI

1. Địa lý tự nhiên

Về vị trí địa lý:

Thành phố Biên Hòa là thành phố loại I trực thuộc tỉnh Đồng Nai, phía Đông giáp huyện Trảng Bom; phía Tây giáp thành phố Dĩ An, thành phố Tân Uyên tỉnh Bình Dương và thành phố Thủ Đức - thành phố Hồ Chí Minh; phía Nam giáp huyện Long Thành; phía Bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Thành phố Biên Hòa ở hai phía của sông Đồng Nai, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km về phía Đông, cách thành phố Vũng Tàu 90 km; là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai.

Về điều kiện tự nhiên

Trên địa bàn thành phố Biên Hòa có 1.625,17 ha rừng, trong đó diện tích rừng thuộc quy hoạch lâm nghiệp phân theo 03 loại rừng (rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất) là 156,6 ha, do Trung tâm dịch vụ nông nghiệp tỉnh Đồng Nai và Ban Quản lý rừng phòng hộ Long Thành quản lý. Diện tích đất có rừng nằm ngoài quy hoạch 03 loại rừng là 1.468,57 hécta do các đơn vị quân đội hoặc cá nhân tự bỏ vốn trồng rừng.

Về thổ nhưỡng

Biên Hoà có 6 nhóm đất chính gồm: đất xám, đất phù sa, đất gley, đất phèn, đất tàng mỏng và nhóm đất nâu. Trong đó, nhóm đất xám có diện tích lớn nhất (l7.927,36 ha), chiếm tới 68,02% diện tích tự nhiên của thành phố. Đặc điểm của nhóm đất này thường có địa hình cao thoát nước tốt, có nền móng vững chắc, rất thuận lợi cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển đô thị.

Về khí hậu

Thành phố Biên Hòa có diện tích tự nhiên là 263,26km²,  nằm trong khu vực Đông Nam Bộ nên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa chung của toàn khu vực gồm hai mùa khá rõ rệt, gồm mùa mưa và mùa khô: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau; nhiệt độ bình quân 280C, độ ẩm bình quân 79%/năm.

2. Địa lý hành chính

Với những di chỉ khảo cổ học đã được phát hiện, khai quật ở Bình Đa (1979), Gò Me (phường Thống Nhất 1982)... các nhà khảo cổ bước đầu xác định thành phố Biên Hòa đã từng là điểm quần cư của người Đồng Nai xưa ở vào thời đại đồ đá mới chuyển sang thời đại đồ đồng cách nay từ 2.500 đến 3.000 năm.

Trải qua những biến thiên của lịch sử tự nhiên, vào thế kỷ 16, 17, thành phố Biên Hòa vẫn là vùng đất hoang vu, rừng rậm, sình lầy. Có thể nói đó là vùng đất mới, chưa hẳn thuộc quyền quản lý của một bộ tộc hay vương quốc nào. Trong tác phẩm Phủ Biên tạp lục do nhà sử học Lê Quý Đôn viết vào thế kỷ 18 đã ghi rõ: "Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai từ cửa biển cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu trở vào là rừng rậm hàng ngàn dặm..."

Thế kỷ 16, 17, lưu dân Việt từ Đàng Ngoài đã vào đây sinh sống. Họ là những nông dân chống đối chế độ bóc lột của các triều đại vua quan phong kiến; những người chống đối cuộc chiến tranh cát cứ của hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn...

Năm 1679, Trần Thắng Tài (tức Trần Thượng Xuyên), một di thần nhà Minh (Trung Quốc), sau khi thất bại trong mưu đồ đồ "bài Mãn phục Minh" đã đưa 3.000 bộ tướng và gia đình theo đường biển xuôi về phương Nam. Nhóm người Hoa này đã được chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép định cư ở xứ Đồng Nai. Họ vào Cù lao Phố cùng với người Việt đã sinh sống ở đây từ trước, chung tay khai phá, xây dựng nên làng xóm, biến nơi đây thành một phố cảng sầm uất, trên bến dưới thuyền, tàu bè trong và ngoài nước đến trao đổi hàng hóa, mua bán tấp nập, gọi là Nông Nại đại phố. 

Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đàng Trong. Ông lập bản doanh tại Cù lao Phố và tiến hành việc tổ chức bộ máy hành chánh, phân định làng, xã, lập sổ đinh... chính thức đưa xứ Đàng Trong vào bản đồ nước Đại Việt. Đông đảo người Việt từ Ngũ Quảng (tức 5 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức - tức Thừa Thiên Huế), nhiều người có tài, vật lực được kêu gọi vào vùng đất mới khai khẩn, sinh sống. Đây là đợt di dân có tổ chức đầu tiên quy mô lớn từ các tỉnh trên vào khai phá và xây dựng cuộc sống, định cư trên đất Đồng Nai.

Xứ Đồng Nai được lập thành phủ Gia Định gồm hai huyện Tân Bình (nay là Sài Gòn) và huyện Phước Long (nay là Biên Hòa - Đồng Nai). Về quân sự, Nguyễn Hữu cảnh lập hai dinh: Dinh Trấn Biên ở huyện Phước Long và Dinh Phiên Trấn ở huyện Tân Bình.

Năm 1788, Nguyễn Ánh chia đất Gia Định làm 4 trấn gồm: Trấn Biên, Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Dinh. Năm 1808, Trấn Biên đổi thành Trấn Biên Hòa, huyện Phước Long nâng lên thành phủ Phước Long gồm 4 tổng: Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An. Thành phố Biên Hòa bấy giờ là một phần của tổng Phước Chánh - trung tâm của trấn Biên Hòa.

Năm 1832, vua Minh Mạng thống nhất việc tổ chức đơn vị hành chính trong cả nước. Trấn Biên Hòa đổi tên thành tỉnh Biên Hòa gồm 1 phủ, 4 huyện (gồm toàn bộ phủ Phước Long với 4 huyện như năm 1808). Thành phố Biên Hòa lúc ấy nằm trong huyện Phước Chánh sau khi nâng tổng lên thành huyện.

Từ năm 1863, sau khi đánh chiếm ba tỉnh miền Đông, thực dân Pháp vẫn giữ nguyên tổ chức hành chính tỉnh Biên Hòa như năm 1832.

Theo tài liệu Tòa bố Biên Hòa năm 1923, thành phố Biên Hòa ngày nay, địa lý hành chính gồm của các làng thuộc 4 tổng như sau:

  • Tổng Phước Vĩnh Thượng (gồm 7 làng): Bình Trước, Bình An, Nhị Hòa, Tam Hòa, Nhứt Hòa, Tân Lại, Vĩnh cửu.
  • Tổng Phước Vĩnh Trung (gồm 2 làng): Bửu Long và Tân Phong.
  • Tổng Long Vĩnh Thượng (gồm 3 làng): An Hòa (Bến Gỗ), Long Bình, Long Hưng.
  • Tổng Chánh Mỹ Thượng (gồm 3 làng): Mỹ Khánh, Tân Hạnh, Tân Vạn.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền nhân dân tại Biên Hòa được xây dựng từ tỉnh đến cơ sở, đồng loạt thay thế bộ máy cai trị do thực dân Pháp để lại. Khi ấy các cơ quan lãnh đạo tỉnh Biên Hòa và quận Châu Thành vẫn đặt tại xã Bình Trước, (là trung tâm tỉnh lỵ). Khi thực dân Pháp chiếm Biên Hòa (24/10/1945), chúng giữ nguyên tổ chức hành chính, xã Bình Trước gồm có 5 khu, 8 ấp.

Đối với cách mạng, giữa năm 1948, nhận thấy nội ô tỉnh Biên Hòa là nơi tập trung nhiều cơ quan, đơn vị chỉ huy đầu sỏ cùng rất nhiều kho tàng của địch, cần bố trí lại địa bàn chiến đấu thích hợp để phát huy khả năng tác chiến của lực lượng tại chỗ, Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Biên Hòa chủ trương cho tách khu vực nội ô tỉnh lỵ, thuộc quận Châu Thành (tức xã Bình Trước và một số ấp, xã lân cận) để thành lập thị xã Biên Hòa - tương đương cấp huyện, và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của tỉnh. Các xã còn lại thuộc huyện Vĩnh Cửu.

Tháng 5/1951, khi tỉnh Thủ Biên được thành lập, thị xã Biên Hòa được tỉnh giao thêm một số xã thuộc huyện Vĩnh Cửu để làm bàn đạp đứng chân hoạt động như Tam Hiệp, Hiệp Hòa, Tân Thành... cho đến kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp (tháng 7/1954).

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, năm 1957, chính quyền Sài Gòn tổ chức tỉnh Biên Hòa gồm có 4 quận: Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên, Dĩ An, có 11 tổng, gần giống tổ chức trước đó của thực dân Pháp.

Năm 1963, chính quyền Sài Gòn lập quận Công Thanh (gồm các xã thuộc quận Châu Thành và Tân Uyên). Ngày 22/3/1963, đổi quận Châu Thành thành quận Đức Tu gồm các xã: Bình Trước, Tam Hiệp, Bùi Tiếng (Tân Mai), Hiệp Hòa, Tân Vạn, Bửu Long, Tân Hạnh, Tân Ba, Long Bình và giữ đến tháng 4/1975.

Đối với cách mạng, từ 1954-1975, thị xã Biên Hòa là một đơn vị chiến trường tương đương huyện. Tháng 9/1965, thị xã Biên Hòa được Trung ương Cục tổ chức lại thành đơn vị ngang cấp tỉnh, lấy phiên hiệu là U1 (U một) bao gồm địa bàn thị xã Biên Hòa và huyện Vĩnh Cửu. Đến tháng 10/1967, chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, U1 được giao thêm huyện Trảng Bom (nay là huyện Trảng Bom và huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai).

Từ tháng 5/1971 đến tháng 10/1972, thị xã Biên Hòa trực thuộc phân khu 5 (phân khu Thủ Biên). Tháng 10/1972, Khu ủy miền Đông được lập lại, các phân khu giải thể để lập lại các tỉnh. Thị xã Biên Hòa là một đơn vị trực thuộc tỉnh Biên Hòa.

Đến tháng 6/1973, do tính chất quan trọng của vùng đô thị, Trung ương Cục miền Nam quyết định tách tỉnh Biên Hòa thành hai địa bàn chiến lược: Biên Hòa đô thị (gồm thị xã Biên Hòa và một số vùng phụ cận); các huyện còn lại trong tỉnh thuộc Biên Hòa nông thôn. Cũng từ đó, thị xã Biên Hòa được nâng lên thành thành phố Biên Hòa cho đến ngày nay.

Ngày 10/5/1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 219/QĐ-TTg công nhận thành phố Biên Hòa là đô thị loại II.

Ngày 30/12/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2488/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Biên Hòa là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đồng Nai.

3. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội

Về kinh tế:

Thời kỳ trước năm 1954, Biên Hòa là tỉnh lớn của chính quyền thuộc Pháp, đại đa số cư dân là nông dân. Theo Địa phương chí tỉnh Biên Hòa (1901), ở đầu thế kỷ XX, Biên Hòa có diện tích trồng lúa khoảng hơn 26.000 ha với sản lượng thấp, lượng gạo cung ứng trong tỉnh không đủ cho nhu cầu của dân cư, ngoài ra, còn trồng khoai lang, khoai mì, thuốc lá, mía... và chăn nuôi nhỏ. Về cơ bản, nông nghiệp Biên Hòa vẫn là nền nông nghiệp cổ truyền với kỹ thuật canh tác thủ công, phụ thuộc vào thiên nhiên, mang tính chất sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc với cây lúa là cây trồng chính. Sở hữu đất đai theo hướng tập trung vào các nhà giàu và khá giả tuy tầng lớp trung nông chiếm tỷ lệ cao. Số nông dân nghèo đi làm mướn và ở đợ ngày càng tăng, họ sống nghèo khổ, lam lũ. Chính quyền thực dân chủ trương nhượng bán đất giá rẻ để những nhà tư bản Pháp phát triển đồn điền theo hướng chuyên canh nông sản hàng hóa nhiệt đới với qui mô từ vừa đến lớn. Đó là bước ngoặt mới của nông nghiệp Biên Hòa do tư bản nước ngoài tạo ra, bên cạnh nền nông nghiệp nhỏ bé của các chủ điền bản xứ, một số tư bản Pháp mở đồn điền trồng một số cây công nghiệp, đặc biệt với loại đất đen, đất đỏ bazan thích hợp cây cao su, các tư bản Pháp đã đầu tư mở rộng trồng và khai thác mủ cao su với nhân công là người Việt. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chủ yếu chỉ phát triển các nghề gốm, chế tác đá. Từ năm 1903, Pháp thành lập trường Bá Nghệ Biên Hòa, chủ yếu đào tạo nghệ nhân đúc đồng, gốm và mộc. Năm 1912, nhà máy cưa BIF chuyên khai thác và chế biến gỗ ở Biên Hòa được thành lập quy mô hơn 500 công nhân.

Thời kỳ 1954-1975, dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam cộng hòa, tỉnh Biên Hòa có những bước phát triển theo hướng đô thị hóa, quân sự hóa,  nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, do chiến tranh cùng chính sách dồn dân lập ấp chiến lược, ruộng đất bị tàn phá nên phát triển không đều. Cư dân nông nghiệp, nông thôn ở Biên Hòa vẫn chiếm trên 85%. Từ năm 1959, chính quyền Việt Nam cộng hòa xây dựng các nhà máy như: Eternit, thành lập công ty khuếch trương kỹ nghệ, xây dựng khu Kỹ nghệ Biên Hòa có 48/96 nhà máy, xí nghiệp đã đi vào hạt động (năm 1975). Diện tích trồng cao su từ năm 1954-1975, có phát triển một số chủ đồn điền người Hoa, người Việt, nhưng các công ty do người Pháp quản lý vẫn chiếm đa số. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, chiến tranh ác liệt, một số đồn điền cao su phải ngừng khai thác, diện tích và sản lượng ngày càng giảm. Trước năm 1972, sản lượng lúa làm ra đáp ứng khoảng 80% nhu cầu, đến năm 1973 đã đáp ứng được 96% nhu cầu.

Từ năm 1976, thị xã Biên Hòa được nâng cấp thành thành phố Biên Hòa - đô thị loại III. Sau nhiều năm phát triển không ngừng, đến năm 2015 thành phố đã được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Thành phố tập trung phát triển công nghiệp và tốc độ đô thị hóa nhanh. Đến nay, thành phố Biên Hòa có 06 khu công nghiệp lớn gồm: Khu công nghiệp Biên Hòa 1, Khu công nghiệp Biên Hòa 2, Khu công nghiệp Amata, Khu công nghiệp Tam Phước, Khu công nghiệp Agtex - Long Bình, Khu công nghiệp Loteco và nhiều cụm công nghiệp với 11.314 doanh nghiệp đang hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, xây dựng, thương mại, dịch vụ, vận tải… thu hút hơn 390.500 công nhân, người lao động từ khắp mọi miền tổ quốc về đây sinh sống, lập nghiệp.

Về văn hóa: 

Thành phố Biên Hòa là trung tâm văn hóa của tỉnh Đồng Nai. Thông qua di chỉ khảo cổ học Bình Đa với nhiều công cụ gốm, đá, đặc biệt bộ đàn đá Bình Đa phát hiện ở đây cho thấy cách đây trên 2.500 năm, người xưa đã có một cuộc sống tinh thần khá phong phú.

Năm 1679, Trần Thượng Xuyên đưa 3.000 bộ tướng và gia đình vào khai khẩn, định cư tại vùng đất Biên Hòa, đã đem theo nhiều nét văn hóa Trung Hoa vào vùng đất nơi đây, cùng với những nét văn hóa đặc sắc của người dân bản địa, đã tạo thành nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày nay trên địa bàn thành phố Biên Hòa còn nhiều kiến trúc văn hóa, tôn giáo độc đáo như:

Thất phủ cổ miếu (thường gọi Chùa Ông) thờ Quan thánh đế quân (Quan Vũ, Quan Công) ở xã Hiệp Hoà được người Hoa xây dựng từ năm 1714.

- Đình Tân Lân thờ Trần Thượng Xuyên, một người Hoa có công xây dựng và phát triển vùng đất Biên Hoà từ năm 1679.

- Lăng mộ Trịnh Hoài, nhà văn hoá gốc Hoa, nhà khoa bảng, tác giả bộ sách Gia Định thành thông chí, một trong “Gia Định Tam gia”.

- Những ngôi cổ tự Bửu Phong, Đại Giác, Long Thiền ghi dấu ấn việc truyền bá đạo Phật ở phương Nam gắn bó chặt chẽ với tín ngưỡng dân gian của dân tộc.

- Nhiều di tích lịch sử gắn bó với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc trên đất Biên Hoà: Đài kỷ niệm, nơi Nguyễn Ái Quốc có bài viết trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” tố cáo hành động mị dân của thực dân Pháp trong chiến tranh thế giới lần thứ I; Bửu Hưng Tự, nhà Hội Bình Trước gắn liền với sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 ở địa phương; Di tích nhà Xanh (BIF) nơi diệt Mỹ đầu tiên… Nhà lao Tân Hiệp, nơi diễn ra cuộc phá ngục quy mô lớn nhất miền Nam (2-12-1956) với 462 cán bộ, người yêu nước trở về với cách mạng.

 - Văn miếu Trấn Biên được xây dựng năm 1715, là nơi thể hiện truyền thống hiếu học và “tôn sư trọng đạo” của người dân vùng đất nơi đây. Ngày nay Văn miếu được phỏng dựng, tôn tạo trở thành một thiết chế văn hoá giáo dục thời hiện đại của Biên Hoà, một thắng cảnh của Đồng Nai.

Ngày này, cùng với sự hội nhập và phát triển mạnh mẽ về kinh tế, kéo theo sự phát triển nhanh chóng về dân số, thành phố Biên Hòa với sự kết tinh văn hóa của các quốc gia trên thế giới, các dân tộc, tôn giáo và các địa phương trong cả nước, tạo thành một bức tranh văn hóa Biên Hòa phong phú và đa dạng.

Về dân số:

Theo số liệu thống kê năm 2022, dân số của thành phố Biên Hòa là 1.226.700 người, mật độ 4.245 người/km²[1]. Thành phố Biên Hòa có 19 dân tộc anh em cùng chung sống, gồm người Kinh chiếm đa số khoảng 99%), và các dân tộc Hoa, Tày, Khmer, Dao, Thái, Mường, Nùng, Chơro, Giarai, Mạ, Thổ, Sán Chay, Sán Dìu, X’Tiêng, Chăm, Êđê, Giấy… (chiếm khoảng 1%).

  Thành phố có 30 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 29 phường: An Bình, Bửu Hoà, Bình Đa, Bửu Long, Hoà Bình, Hố Nai, Long Bình, Long Bình Tân, Quyết Thắng, Quang Vinh, Thanh Bình, Tam Hiệp, Tam Hoà, Tân Biên, Thống Nhất, Tân Hiệp, Tân Hoà, Tân Mai, Tân Phong, Tân Tiến, Tân Vạn, Trảng Dài, Trung Dũng, Hóa An, Hiệp Hoà, Tân Hạnh, An Hoà, Phước Tân, Tam Phước và 01 xã Long Hưng.

Về Tôn giáo: Trên địa bàn thành phố Biên Hòa có 16 tổ chức tôn giáo với khoảng 533.780 tín đồ, chiếm khoảng 64 % dân số, trong đó có 5 tổ chức có cơ sở thờ tự, chức sắc, nhà tu hành gồm Công giáo, Phật giáo, Cao đài, Tin lành và Tịnh độ cư sĩ Phật hội. Các vị chức sắc, chức việc và đồng bào các tôn giáo phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết giúp đỡ nhau sống tốt đời đẹp đạo và tham gia các cuộc vận động, phát động của địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn thành phố Biên Hòa.

II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ BIÊN HÒA (TỪ 1930 ĐẾN NAY)
1. Đảng bộ tỉnh Biên Hòa (1930 1945)

Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (sau đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương) đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của Nhân dân chống thực dân Pháp và tay sai. Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, chi bộ Bình Phước - Tân Triều (chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Biên Hòa xưa, Đồng Nai hiện nay) được thành lập tháng 02/1935 gồm 07 đảng viên, do đồng chí Bùi Thành Vĩ (tự Hoàng Minh Châu) làm Bí thư. Chi bộ ra đời đã kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và quần chúng lao động, mở ra bước ngoặt lịch sử mới cho phong trào cách mạng ở tỉnh Biên Hòa. Từ những hạt giống đỏ của chi bộ, các đồng chí đảng viên tích cực hoạt động, tỏa đi khắp nơi để phát triển thêm đảng viên mới như: Phạm Văn Thuận, Huỳnh Dân Sanh, Huỳnh Văn Lũy... xây dựng tổ chức cơ sở đảng mới ở quận Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên và thị xã Biên Hòa, tạo tiền đề để phong trào cách mạng ở đây phát triển. 

Cuối năm 1936, Liên Tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí Trương Văn Bang - Nguyên Bí thư Xứ ủy Nam kỳ về xây dựng tổ chức Đảng ở Biên Hòa. Tháng 02/1937, tại nhà ông Huỳnh Văn Ngọc (tức Năm Ông) làng Bình Ý (quận Châu Thành), Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được thành lập do đồng chí Trương Văn Bang làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Xuân Phan làm Phó Bí thư, các Tỉnh ủy viên gồm các đồng chí: Trần Văn Triết, Lê Văn Tôn, Huỳnh Văn Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ. Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa được thành lập là sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng đối với Nhân dân, phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa. Điều đặc biệt là địa điểm tổ chức hội nghị thành lập Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa chính là nơi đã thành lập chi bộ Bình Phước - Tân Triều. Sự ra đời của Tỉnh ủy lâm thời đã tạo ra bước ngoặt mới đối với phong trào cách mạng, thể hiện sự phát triển nhanh chóng của tổ chức đảng và đảng viên ở tỉnh Biên Hòa, kịp thời lãnh đạo phong trào đòi tự do, dân sinh dân chủ, làm tiền đề cho cuộc vận động cách mạng ở giai đoạn sau.

Sau khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, các tổ chức cơ sở Đảng trên địa bàn tỉnh Biên Hòa phải chuyển địa bàn hoạt động trước sự khủng bố trắng trợn của thực dân Pháp và tay sai. Đầu năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, các tổ chức cơ sở Đảng lần lượt được gầy dựng trở lại chuẩn bị lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám. Tháng 7/1945, tại chùa Tân Mai, đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ họp với các đồng chí: Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn Búng, Đặng Nguyên, Lê Nguyên Đạt... phổ biến chủ trương của Xứ ủy là gấp rút xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, cả lực lượng chính trị và vũ trang, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Trong không khí cách mạng tháng Tám năm 1945 trên cả nước, với hơn 40 đảng viên của tỉnh Biên Hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã khởi nghĩa thành công, giành chính quyền về tay Nhân dân, chấm dứt hơn 80 năm nô lệ thực dân Pháp, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do đối với người dân Biên Hòa.

Có những thời điểm gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, bị thực dân Pháp truy lùng gắt gao, tổn thất, phải hoạt động bí mật, nhưng Tỉnh ủy Biên Hòa vẫn quyết tâm bám trụ, vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng vào thực tiễn địa phương để lãnh đạo xuyên suốt phong trào cách mạng, quá trình xây dựng và chuẩn bị mọi mặt về cơ sở, tổ chức và lực lượng cách mạng, phát huy cao độ truyền thống vùng đất “Miền Đông gian lao mà anh dũng”, góp phần cùng cả nước giành nhiều thắng lợi.

2. Đảng bộ tỉnh Biên Hòa lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi ở Biên Hòa là một cuộc đổi đời thực sự với nhân dân nơi đây. Tuy nhiên sau cách mạng, Tỉnh ủy chưa được khôi phục, số đảng viên cốt cán vẫn chủ động thành lập các tổ chức cách mạng và lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ cấp bách là củng cố hệ thống tổ chức đảng, lãnh đạo xây dựng hệ thống chính quyền nhân dân các cấp. Xứ ủy và Ủy ban Khởi nghĩa Nam Bộ chỉ định đồng chí Hoàng Minh Châu, người phụ trách Tỉnh ủy Biên Hòa kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Biên Hòa. Chính quyền nhân dân tỉnh Biên Hòa được thành lập do đồng chí Hoàng Minh Châu làm Chủ tịch, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh xây dựng cuộc sống mới và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ.

Ngày 23/9/1945, tại Nhà hội Bình Trước, đồng chí Hà Huy Giáp thay mặt Xứ ủy Nam Bộ triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa. Hội nghị gồm 40 cán bộ là những đảng viên từng hoạt động ở Biên Hòa trước năm 1945, một số đồng chí từ nhà tù Côn Đảo, Sài Gòn được Xứ ủy Nam Bộ giới thiệu về. Hội nghị đã củng cố lại Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa gồm 11 đồng chí, do đồng chí Trần Công Khanh làm Bí thư, đồng chí Hoàng Minh Châu làm Phó Bí thư, đồng chí Phan Đình Công - Ủy viên Thường vụ; Tỉnh ủy viên gồm các đồng chí: Lê Nguyên Đạt, Huỳnh Văn Hớn, Hồ Văn Giàu, Đặng Nguyên, Lê Thái, Ngô Hà Thành, Phạm Văn Búng, Hồ Văn Đại. Việc khôi phục lại Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng tình thế cấp bách; kịp thời đánh giá tình hình; đề ra các nội dung lãnh đạo Nhân dân chuẩn bị tâm thế và tiềm lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài; lãnh đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức đảng ở các địa phương.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tỉnh ủy Biên Hòa lãnh đạo toàn diện quân dân trên địa bàn tỉnh như xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, các tổ chức cơ sở đảng ở thành thị, nông thôn, các đoàn thể chính trị. Để phù hợp với sắp xếp bố trí chiến trường, tỉnh Biên Hòa được tách, nhập để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới. Được sự lãnh đạo sâu sát, xuyên suốt, kịp thời của Tỉnh ủy Biên Hòa, quân dân tỉnh Biên Hòa lần lượt đánh bại thực dân Pháp tái xâm lược, làm nên các chiến thắng vang dội trên cả nước như chiến thắng La Ngà ngày 1/3/1948, tháp canh cầu Bà Kiên 19/3/1948… góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, chấm dứt vĩnh viễn sự xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta.

3. Đảng bộ tỉnh Biên Hòa lãnh đạo kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975)

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tỉnh Biên Hòa với địa chiến lược rất quan trọng ở miền Đông Nam Bộ đã được đế quốc Mỹ tăng cường xây dựng hạ tầng quân sự kiên cố, hiện đại như: sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, kho bom Thành Tuy Hạ… Do đó, chiến sự diễn ra trên địa bàn tỉnh Biên Hòa ác liệt hơn so với nhiều địa phương khác. Để thích nghi với công tác bố trí chiến trường, tỉnh Biên Hòa trải qua nhiều lần tách, nhập đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Dưới sự lãnh đạo toàn diện của Tỉnh ủy Biên Hòa, công tác xây dựng căn cứ cách mạng được chú trọng như: căn cứ U1 (huyện Trảng Bom), U3 (huyện Long Thành), chiến khu Phước An (huyện Nhơn Trạch),… và công tác xây dựng Đảng, chính trị, địa phương, các đoàn thể luôn được Tỉnh ủy quan tâm lãnh đạo, phát triển rộng khắp. Với sự tinh thần quyết chiến, quyết thắng, các lực lượng vũ trang cách mạng, Nhân dân và cấp trên đóng chân trên địa bàn tỉnh tổ chức đánh Mỹ, làm nên nhiều chiến thắng như: trận đánh Nhà Xanh (07/7/1959); trận tập kích sân bay Biên Hòa lần 1 (31/10/1964), lần 2 (12/5/1967), lần 3 (05/11/1967), lần 4 (10/9/1972), tấn công Tổng kho Long Bình (từ năm 1966-1972), chiến dịch Xuân Lộc (09/4-21/4/1975),… Đặc biệt, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, quân dân tỉnh Biên Hòa tích cực phối hợp các đơn vị chủ lực Miền nổi dậy, giải phóng các địa phương, đánh bại tuyến phòng thủ vòng ngoài của chính quyền Sài Gòn ở Xuân Lộc, đã mở ra cánh cửa hướng Đông và Đông Nam góp phần đưa đại quân ta tiến nhanh vào Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng ngày 30/4/1975, đất nước hoàn toàn được thống nhất, non sông nối liền một dải.

4. Đảng bộ Biên Hòa lãnh đạo cải tạo, xây dựng kinh tế (1975-1985)

Tháng 1/1976, tỉnh Đồng Nai được thành lập, thành phố Biên Hòa chính thức trở thành trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh.

Từ năm 1976 đến 1985, thành phố Biên Hòa trải qua ba kỳ Đại hội.

Nhiệm vụ trung tâm của Đảng bộ thành phố Biên Hòa giai đoạn này là lãnh đạo toàn dân tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, an ninh quốc phòng theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và thứ V đã nêu ra nhằm hai mục tiêu chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong hai năm đầu (1976-1977), thành phố tiến hành công hữu hóa các cơ sở công nghiệp của những tư sản đã bỏ ra nước ngoài; cải tạo tư sản nhỏ, thành lập công tư hợp doanh sản xuất theo định hướng của Nhà nước. Năm 1977, thành phố hoàn thành cải tạo lực lượng vận tải hàng hóa và xe khách, cải tạo lực lượng vận tải chuyên dùng trong công nghiệp, lâm nghiệp.

Năm 1978, thành phố tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất tư sản thương nghiệp đối với 13 mặt hàng trong ngành vật tư kỹ thuật, điện máy và công nghệ phẩm. Đồng thời tiến hành cải tạo trên các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục tư nhân và nhà đất.

Đi đôi quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, thành phố tiến hành sắp xếp lại sản xuất theo hướng quốc doanh và tập thể. Trong năm 1976, thành phố có 4 xí nghiệp quốc doanh, 54 hợp tác xã may mặc đan lát, chế biến thực phẩm, gốm, cơ khí...; tổ chức 110 cơ sở tư nhân thành tổ chức hợp đồng gia công hàng cho quốc doanh. Phường Bửu Hòa tổ chức thí điểm được một hợp tác xã mua bán; phường Hòa Bình xây dựng một hợp tác xã tiêu thụ. Trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, năm 1977, xã Hiệp Hòa thành lập được hai tập đoàn sản xuất nông nghiệp 1 và 2 lần đầu tiên ở thành phố Biên Hòa.

Qua 10 năm (1976-1985), thành phố Biên Hòa dồn sức cho công cuộc cải tạo và xây dựng các ngành nghề, đã hình thành được 15 xí nghiệp quốc doanh; 95 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và hợp tác xã mua bán; hai hợp tác xã nông nghiệp (Hiệp Hòa và Gò Mè); 107 tập đoàn, tổ hợp tác trong nông nghiệp và khai thác chế biến nguyên liệu; 22 trạm trại và đội chuyên ngành.

Nhờ thông qua cải tạo và sắp xếp lại sản xuất, thành phố đã thực hiện được phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” bằng cách phát huy vai trò của các hợp tác xã. Các tổ chức kinh tế tập thể đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng đóng góp của xã viên làm nguồn vốn cố định và lưu động đáp ứng cho sản xuất và kinh doanh. Tỷ trọng sản phẩm hàng hóa làm ra ở khu vực kinh tế tập thể chiếm ưu thế. Đồng thời, chế độ kinh tế tập thể đã góp phần giải quyết nạn thất nghiệp cho người nghèo ở thành phố.

5. Đảng bộ thành phố Biên Hòa lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới (1986 – nay)

Từ năm 1986 đến 2020, Đảng bộ thành phố Biên Hòa đã qua 08 kỳ Đại hội. Thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) của Đảng, Đảng bộ thành phố đã tập trung lãnh đạo đổi mới tư duy mọi mặt, thực hiện thắng lợi các nghị quyết công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, tổ chức chính trị - xã hội thành phố đạt nhiều thành tựu quan trọng.

Những năm đầu đổi mới, thành phố luôn xác định công nghiệp và thương mại - dịch vụ là ngành nghề được chú trọng phát triển, từ chợ Biên Hòa đến năm 2015, thành phố có nhiều chợ, trung tâm thương mại, siêu thị… làm tăng hiệu quả thị trường bán lẻ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tăng bình quân 17,71%/năm.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố trong những năm đổi mới hội nhập và phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Giá trị tổng sản lượng năm 2010 tăng gấp 496 lần năm 1985 và gấp 2.316 lần năm 1976. Thu nhập bình quân đầu người đầu người của thành phố năm 2010 là 2334 USD. Hiện nay, cơ cấu kinh tế của Biên Hòa là công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Trong đó kinh tế công nghiệp là chủ đạo, chiếm tỷ trọng cao trong sự phát triển kinh tế của thành phố. Thành phố Biên Hòa hiện có 6 khu công nghiệp lớn và nhiều cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Năm 2023, tổng giá trị sản xuất công nghiệp là 547.738 tỷ đồng; tổng mức bán lẻ hàng hóa - dịch vụ đạt 156.962 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 4.261 tỷ đồng. Thành phố cơ bản chấm dứt việc chăn nuôi gia súc trong nội ô, sắp xếp lại các cơ sở giết mổ gia súc gia cầm, quy hoạch lại làng cá bè trên sông Đồng Nai đoạn qua thành phố Biên Hòa phù hợp với cảnh quan môi trường.

Hệ thống chính trị, công tác xây dựng Đảng luôn được xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Đến năm 2023, Đảng bộ thành phố có 94 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc, với gần 24 ngàn đảng viên, là những hạt nhân chính trị nòng cốt, là cầu nối trong việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.

Văn hóa, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, thụ hưởng tinh thần của nhân dân. Đời sống của Nhân dân không ngừng được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng bộ thành phố Biên Hòa tiếp tục kế thừa những kinh nghiệm quý báu của Thành ủy qua các thời kỳ, lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân thành phố tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, đường lối của Đảng, viết tiếp những trang sử vẻ vang, hào hùng trong kháng chiến; năng động, sáng tạo trong lao động, sản xuất, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, quyết tâm xây dựng thành phố Biên Hòa phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, xứng tầm là độ thị loại I, là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh Đồng Nai, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./. 

  • Dự án Cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

    Dự án Cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

  • Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

    Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

  • Khu phố Long Khánh 3, phường Tam Phước tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc

    Khu phố Long Khánh 3, phường Tam Phước tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc

  • Tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2024 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2025

    Tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2024 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2025

  • Ông Nguyễn Phong An làm Chủ tịch UBND thành phố Biên Hòa

    Ông Nguyễn Phong An làm Chủ tịch UBND thành phố Biên Hòa

  • Hôm nay:   148
  • Tháng hiện tại:   304
  • Tổng lượt truy cập:   93832