QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ BIÊN HÒA (TỪ 1930 ĐẾN NAY)
1. Đảng bộ tỉnh Biên Hòa (1930 - 1945)
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (sau đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương) đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của Nhân dân chống thực dân Pháp và tay sai. Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, chi bộ Bình Phước - Tân Triều (chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Biên Hòa xưa, Đồng Nai hiện nay) được thành lập tháng 02/1935 gồm 07 đảng viên, do đồng chí Bùi Thành Vĩ (tự Hoàng Minh Châu) làm Bí thư. Chi bộ ra đời đã kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và quần chúng lao động, mở ra bước ngoặt lịch sử mới cho phong trào cách mạng ở tỉnh Biên Hòa. Từ những hạt giống đỏ của chi bộ, các đồng chí đảng viên tích cực hoạt động, tỏa đi khắp nơi để phát triển thêm đảng viên mới như: Phạm Văn Thuận, Huỳnh Dân Sanh, Huỳnh Văn Lũy... xây dựng tổ chức cơ sở đảng mới ở quận Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên và thị xã Biên Hòa, tạo tiền đề để phong trào cách mạng ở đây phát triển.
Cuối năm 1936, Liên Tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí Trương Văn Bang - Nguyên Bí thư Xứ ủy Nam kỳ về xây dựng tổ chức Đảng ở Biên Hòa. Tháng 02/1937, tại nhà ông Huỳnh Văn Ngọc (tức Năm Ông) làng Bình Ý (quận Châu Thành), Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được thành lập do đồng chí Trương Văn Bang làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Xuân Phan làm Phó Bí thư, các Tỉnh ủy viên gồm các đồng chí: Trần Văn Triết, Lê Văn Tôn, Huỳnh Văn Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ. Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa được thành lập là sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng đối với Nhân dân, phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa. Điều đặc biệt là địa điểm tổ chức hội nghị thành lập Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa chính là nơi đã thành lập chi bộ Bình Phước - Tân Triều. Sự ra đời của Tỉnh ủy lâm thời đã tạo ra bước ngoặt mới đối với phong trào cách mạng, thể hiện sự phát triển nhanh chóng của tổ chức đảng và đảng viên ở tỉnh Biên Hòa, kịp thời lãnh đạo phong trào đòi tự do, dân sinh dân chủ, làm tiền đề cho cuộc vận động cách mạng ở giai đoạn sau.
Sau khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, các tổ chức cơ sở Đảng trên địa bàn tỉnh Biên Hòa phải chuyển địa bàn hoạt động trước sự khủng bố trắng trợn của thực dân Pháp và tay sai. Đầu năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, các tổ chức cơ sở Đảng lần lượt được gầy dựng trở lại chuẩn bị lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám. Tháng 7/1945, tại chùa Tân Mai, đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ họp với các đồng chí: Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn Búng, Đặng Nguyên, Lê Nguyên Đạt... phổ biến chủ trương của Xứ ủy là gấp rút xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, cả lực lượng chính trị và vũ trang, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Trong không khí cách mạng tháng Tám năm 1945 trên cả nước, với hơn 40 đảng viên của tỉnh Biên Hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã khởi nghĩa thành công, giành chính quyền về tay Nhân dân, chấm dứt hơn 80 năm nô lệ thực dân Pháp, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do đối với người dân Biên Hòa.
Có những thời điểm gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, bị thực dân Pháp truy lùng gắt gao, tổn thất, phải hoạt động bí mật, nhưng Tỉnh ủy Biên Hòa vẫn quyết tâm bám trụ, vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng vào thực tiễn địa phương để lãnh đạo xuyên suốt phong trào cách mạng, quá trình xây dựng và chuẩn bị mọi mặt về cơ sở, tổ chức và lực lượng cách mạng, phát huy cao độ truyền thống vùng đất “Miền Đông gian lao mà anh dũng”, góp phần cùng cả nước giành nhiều thắng lợi.
2. Đảng bộ tỉnh Biên Hòa lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi ở Biên Hòa là một cuộc đổi đời thực sự với nhân dân nơi đây. Tuy nhiên sau cách mạng, Tỉnh ủy chưa được khôi phục, số đảng viên cốt cán vẫn chủ động thành lập các tổ chức cách mạng và lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ cấp bách là củng cố hệ thống tổ chức đảng, lãnh đạo xây dựng hệ thống chính quyền nhân dân các cấp. Xứ ủy và Ủy ban Khởi nghĩa Nam Bộ chỉ định đồng chí Hoàng Minh Châu, người phụ trách Tỉnh ủy Biên Hòa kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Biên Hòa. Chính quyền nhân dân tỉnh Biên Hòa được thành lập do đồng chí Hoàng Minh Châu làm Chủ tịch, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh xây dựng cuộc sống mới và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ.
Ngày 23/9/1945, tại Nhà hội Bình Trước, đồng chí Hà Huy Giáp thay mặt Xứ ủy Nam Bộ triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa. Hội nghị gồm 40 cán bộ là những đảng viên từng hoạt động ở Biên Hòa trước năm 1945, một số đồng chí từ nhà tù Côn Đảo, Sài Gòn được Xứ ủy Nam Bộ giới thiệu về. Hội nghị đã củng cố lại Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa gồm 11 đồng chí, do đồng chí Trần Công Khanh làm Bí thư, đồng chí Hoàng Minh Châu làm Phó Bí thư, đồng chí Phan Đình Công - Ủy viên Thường vụ; Tỉnh ủy viên gồm các đồng chí: Lê Nguyên Đạt, Huỳnh Văn Hớn, Hồ Văn Giàu, Đặng Nguyên, Lê Thái, Ngô Hà Thành, Phạm Văn Búng, Hồ Văn Đại. Việc khôi phục lại Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng tình thế cấp bách; kịp thời đánh giá tình hình; đề ra các nội dung lãnh đạo Nhân dân chuẩn bị tâm thế và tiềm lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài; lãnh đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức đảng ở các địa phương.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tỉnh ủy Biên Hòa lãnh đạo toàn diện quân dân trên địa bàn tỉnh như xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, các tổ chức cơ sở đảng ở thành thị, nông thôn, các đoàn thể chính trị. Để phù hợp với sắp xếp bố trí chiến trường, tỉnh Biên Hòa được tách, nhập để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới. Được sự lãnh đạo sâu sát, xuyên suốt, kịp thời của Tỉnh ủy Biên Hòa, quân dân tỉnh Biên Hòa lần lượt đánh bại thực dân Pháp tái xâm lược, làm nên các chiến thắng vang dội trên cả nước như chiến thắng La Ngà ngày 1/3/1948, tháp canh cầu Bà Kiên 19/3/1948… góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, chấm dứt vĩnh viễn sự xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta.
3. Đảng bộ tỉnh Biên Hòa lãnh đạo kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975)
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tỉnh Biên Hòa với địa chiến lược rất quan trọng ở miền Đông Nam Bộ đã được đế quốc Mỹ tăng cường xây dựng hạ tầng quân sự kiên cố, hiện đại như: sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, kho bom Thành Tuy Hạ… Do đó, chiến sự diễn ra trên địa bàn tỉnh Biên Hòa ác liệt hơn so với nhiều địa phương khác. Để thích nghi với công tác bố trí chiến trường, tỉnh Biên Hòa trải qua nhiều lần tách, nhập đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Dưới sự lãnh đạo toàn diện của Tỉnh ủy Biên Hòa, công tác xây dựng căn cứ cách mạng được chú trọng như: căn cứ U1 (huyện Trảng Bom), U3 (huyện Long Thành), chiến khu Phước An (huyện Nhơn Trạch),… và công tác xây dựng Đảng, chính trị, địa phương, các đoàn thể luôn được Tỉnh ủy quan tâm lãnh đạo, phát triển rộng khắp. Với sự tinh thần quyết chiến, quyết thắng, các lực lượng vũ trang cách mạng, Nhân dân và cấp trên đóng chân trên địa bàn tỉnh tổ chức đánh Mỹ, làm nên nhiều chiến thắng như: trận đánh Nhà Xanh (07/7/1959); trận tập kích sân bay Biên Hòa lần 1 (31/10/1964), lần 2 (12/5/1967), lần 3 (05/11/1967), lần 4 (10/9/1972), tấn công Tổng kho Long Bình (từ năm 1966-1972), chiến dịch Xuân Lộc (09/4-21/4/1975),… Đặc biệt, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, quân dân tỉnh Biên Hòa tích cực phối hợp các đơn vị chủ lực Miền nổi dậy, giải phóng các địa phương, đánh bại tuyến phòng thủ vòng ngoài của chính quyền Sài Gòn ở Xuân Lộc, đã mở ra cánh cửa hướng Đông và Đông Nam góp phần đưa đại quân ta tiến nhanh vào Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng ngày 30/4/1975, đất nước hoàn toàn được thống nhất, non sông nối liền một dải.
4. Đảng bộ Biên Hòa lãnh đạo cải tạo, xây dựng kinh tế (1975-1985)
Tháng 1/1976, tỉnh Đồng Nai được thành lập, thành phố Biên Hòa chính thức trở thành trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh.
Từ năm 1976 đến 1985, thành phố Biên Hòa trải qua ba kỳ Đại hội.
Nhiệm vụ trung tâm của Đảng bộ thành phố Biên Hòa giai đoạn này là lãnh đạo toàn dân tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, an ninh quốc phòng theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và thứ V đã nêu ra nhằm hai mục tiêu chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong hai năm đầu (1976-1977), thành phố tiến hành công hữu hóa các cơ sở công nghiệp của những tư sản đã bỏ ra nước ngoài; cải tạo tư sản nhỏ, thành lập công tư hợp doanh sản xuất theo định hướng của Nhà nước. Năm 1977, thành phố hoàn thành cải tạo lực lượng vận tải hàng hóa và xe khách, cải tạo lực lượng vận tải chuyên dùng trong công nghiệp, lâm nghiệp.
Năm 1978, thành phố tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất tư sản thương nghiệp đối với 13 mặt hàng trong ngành vật tư kỹ thuật, điện máy và công nghệ phẩm. Đồng thời tiến hành cải tạo trên các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục tư nhân và nhà đất.
Đi đôi quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, thành phố tiến hành sắp xếp lại sản xuất theo hướng quốc doanh và tập thể. Trong năm 1976, thành phố có 4 xí nghiệp quốc doanh, 54 hợp tác xã may mặc đan lát, chế biến thực phẩm, gốm, cơ khí...; tổ chức 110 cơ sở tư nhân thành tổ chức hợp đồng gia công hàng cho quốc doanh. Phường Bửu Hòa tổ chức thí điểm được một hợp tác xã mua bán; phường Hòa Bình xây dựng một hợp tác xã tiêu thụ. Trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, năm 1977, xã Hiệp Hòa thành lập được hai tập đoàn sản xuất nông nghiệp 1 và 2 lần đầu tiên ở thành phố Biên Hòa.
Qua 10 năm (1976-1985), thành phố Biên Hòa dồn sức cho công cuộc cải tạo và xây dựng các ngành nghề, đã hình thành được 15 xí nghiệp quốc doanh; 95 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và hợp tác xã mua bán; hai hợp tác xã nông nghiệp (Hiệp Hòa và Gò Mè); 107 tập đoàn, tổ hợp tác trong nông nghiệp và khai thác chế biến nguyên liệu; 22 trạm trại và đội chuyên ngành.
Nhờ thông qua cải tạo và sắp xếp lại sản xuất, thành phố đã thực hiện được phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” bằng cách phát huy vai trò của các hợp tác xã. Các tổ chức kinh tế tập thể đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng đóng góp của xã viên làm nguồn vốn cố định và lưu động đáp ứng cho sản xuất và kinh doanh. Tỷ trọng sản phẩm hàng hóa làm ra ở khu vực kinh tế tập thể chiếm ưu thế. Đồng thời, chế độ kinh tế tập thể đã góp phần giải quyết nạn thất nghiệp cho người nghèo ở thành phố.
5. Đảng bộ thành phố Biên Hòa lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới (1986 – nay)
Từ năm 1986 đến 2020, Đảng bộ thành phố Biên Hòa đã qua 08 kỳ Đại hội. Thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) của Đảng, Đảng bộ thành phố đã tập trung lãnh đạo đổi mới tư duy mọi mặt, thực hiện thắng lợi các nghị quyết công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, tổ chức chính trị - xã hội thành phố đạt nhiều thành tựu quan trọng.
Những năm đầu đổi mới, thành phố luôn xác định công nghiệp và thương mại - dịch vụ là ngành nghề được chú trọng phát triển, từ chợ Biên Hòa đến năm 2015, thành phố có nhiều chợ, trung tâm thương mại, siêu thị… làm tăng hiệu quả thị trường bán lẻ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tăng bình quân 17,71%/năm.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố trong những năm đổi mới hội nhập và phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Giá trị tổng sản lượng năm 2010 tăng gấp 496 lần năm 1985 và gấp 2.316 lần năm 1976. Thu nhập bình quân đầu người đầu người của thành phố năm 2010 là 2334 USD. Hiện nay, cơ cấu kinh tế của Biên Hòa là công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Trong đó kinh tế công nghiệp là chủ đạo, chiếm tỷ trọng cao trong sự phát triển kinh tế của thành phố. Thành phố Biên Hòa hiện có 6 khu công nghiệp lớn và nhiều cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Năm 2023, tổng giá trị sản xuất công nghiệp là 547.738 tỷ đồng; tổng mức bán lẻ hàng hóa - dịch vụ đạt 156.962 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 4.261 tỷ đồng. Thành phố cơ bản chấm dứt việc chăn nuôi gia súc trong nội ô, sắp xếp lại các cơ sở giết mổ gia súc gia cầm, quy hoạch lại làng cá bè trên sông Đồng Nai đoạn qua thành phố Biên Hòa phù hợp với cảnh quan môi trường.
Hệ thống chính trị, công tác xây dựng Đảng luôn được xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Đến năm 2023, Đảng bộ thành phố có 94 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc, với gần 24 ngàn đảng viên, là những hạt nhân chính trị nòng cốt, là cầu nối trong việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở.
Văn hóa, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, thụ hưởng tinh thần của nhân dân. Đời sống của Nhân dân không ngừng được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng bộ thành phố Biên Hòa tiếp tục kế thừa những kinh nghiệm quý báu của Thành ủy qua các thời kỳ, lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân thành phố tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, đường lối của Đảng, viết tiếp những trang sử vẻ vang, hào hùng trong kháng chiến; năng động, sáng tạo trong lao động, sản xuất, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, quyết tâm xây dựng thành phố Biên Hòa phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, xứng tầm là độ thị loại I, là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh Đồng Nai, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.