KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN THỐNG NHẤT

 

I. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, HÀNH CHÍNH

1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Địa giới hành chính của huyện được xác định: Phía Đông giáp thành phố Long Khánh; Tây giáp huyện Trảng Bom; Nam giáp huyện Long Thành, Cẩm Mỹ; Bắc giáp huyện Định Quán[1].

Huyện Thống Nhất có 10 đơn vị hành chính xã, thị trấn, với 44 ấp, khu phố. Diện tích đất tự nhiên là 24.721,6ha, dân số 171.911 người, đồng bào có đạo chiếm trên 87,23% (đạo Công giáo chiếm 72,63%). Toàn huyện có 25 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 95,93%[2]. Mật độ dân cư trên địa bàn huyện phân bố không đồng đều giữa các xã, tập trung đông dân nhất là khu vực xã Quang Trung, Gia Kiệm, Gia Tân 1, Gia Tân 2, Gia Tân 3, dân cư tập trung đông dọc theo Quốc lộ 20. Trung tâm hành chính của huyện nằm ở phía Đông Bắc ngã 3 Dầu Giây và nằm cạnh giao điểm của các tuyến Quốc lộ 1 - Quốc lộ 20, gần cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây và Dầu Giây  - Liên Khương.

2. Điều kiện kinh tế

Huyện Thống Nhất trước đây là một vùng rừng hoang vu (trước cách mạng Tháng Tám 1945 và trước năm 1954). Hiện nay, trên địa bàn huyện có 5 khu, cụm công nghiệp: Khu công nghiệp Dầu Giây, Gia Kiệm, khu liên hợp công nông nghiệp Dofico tại xã Lộ, cụm công nghiệp Hưng Lộc trên địa bàn xã Hưng Lộc và cụm công nghiệp Quang Trung tại xã Quang Trung.

Tại Trung tâm hành chính huyện có Chợ đầu mối nông sản thực phẩm Dầu Giây được xây dựng trên diện tích 2ha, là chợ đầu mối nông sản đầu tiên của tỉnh, là nơi mua, bán các mặt hàng nông sản thực phẩm trong huyện, tỉnh.

Trong tương lai, với địa thế là nơi hội tụ các đầu mối giao thông quốc gia quan trọng, nối với các trung tâm kinh tế lớn trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và khu vực Nam Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ, huyện Thống Nhất có điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư từ bên ngoài vào các khu, cụm công nghiệp.

3. Địa giới hành chính qua các thời kỳ

+ Hành chính thời chúa Nguyễn

Năm 1698, Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh) được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào kinh lược xứ Đàng trong, ông đã xây dựng hệ thống hành chính và thiết chế xã hội của người Việt ở Nam bộ. Ông đặt miền đất mới (nay là Nam Bộ) thành phủ Gia Định có 2 huyện: Tân Bình (đặt dinh Phiên Trấn), Phước Long (đặt dinh Trấn Biên).

Năm 1802, Dinh được đổi thành trấn Biên Hòa. Huyện Phước Long thành phủ Phước Long gồm 4 huyện: Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An (bốn tổng của huyện Phước Long cũ). Huyện Thống Nhất thuộc huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa. Năm 1851, phủ Phước Long còn lại 2 huyện (Phước Chánh, Bình An), phủ Phước Tuy còn lại 2 huyện (Long Thành, Phước An). Huyện Thống Nhất thuộc huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa.

+ Hành chính thời thuộc Pháp và chính quyền Việt Nam Cộng hòa:

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Ngày 16/12/1861, Biên Hòa rơi vào tay Pháp. Huyện Thống Nhất thời gian này thuộc tiểu khu Biên Hòa. Năm 1867, tỉnh Biên Hòa có 5 địa hạt: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Bình An, Ngãi An. Hạt Long Thành có 2 huyện: Long Thành, Bảo Chánh. Huyện Thống Nhất thuộc tổng Bình Lâm Thượng, huyện Bảo Chánh, hạt Long Thành.

Ngày 28/4/1967, thành lập quận Kiệm Tân gồm 5 xã: Gia Tân, Gia Kiệm, Bình Lộc, Bình Hòa, Bến Nôm. Quận Xuân Lộc có 11 xã: Hiếu Kỉnh, Xuân Lộc, An Lộc, Tân Lập, Thới Giao, Cẩm Mỹ, Cẩm Tân, Hưng Lộc, Dầu Giây, Hưng Thuận, Gia Ray. Huyện Thống Nhất lúc này thuộc các xã: Gia Tân, Gia Kiệm, Bình Lộc (quận Kiệm Tân) và Tân Lập, Hưng Lộc, Dầu Giây (quận Xuân Lộc), tỉnh Biên Hòa. Địa giới hành chính này của huyện tồn tại đến ngày đất nước được giải phóng.

+ Hành chính dưới chính quyền cách mạng và nước Việt Nam thống nhất:

Trước năm 1945, địa bàn tỉnh Biên Hòa cơ bản giữ nguyên tổ chức địa lý hành chính trước đây. Sau Cách mạng Tháng Tám, tỉnh Biên Hòa gồm các quận: Châu Thành, Tân Uyên, Bà Rá, Long Thành, Xuân Lộc. Huyện Thống Nhất thuộc quận Châu Thành và Xuân Lộc. Ngày 25/3/1948, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 148-SL bãi bỏ danh từ phủ, châu, tổng, quận; cấp trên cấp xã và dưới cấp tỉnh nay gọi là cấp huyện. Quận Châu Thành trở thành huyện Châu Thành và tách thành 2 đơn vị hành chính là thị xã Biên Hòa và huyện Vĩnh Cửu. Huyện Thống Nhất thuộc huyện Vĩnh Cửu và huyện Xuân Lộc, tỉnh Biên Hòa.

Đất nước thống nhất, tháng 1/1976, tỉnh Đồng Nai được thành lập, huyện Thống Nhất là 1 trong 10 đơn vị hành chính thuộc tỉnh Đồng Nai, có 16 xã[3]. Năm 1978, chuyển xã Hố Nai 1, Hố Nai 2 về thành phố Biên Hòa, huyện còn 14 xã. Năm 1982, chia xã Gia Tân thành 3 xã, chia xã Gia Kiệm thành 2 xã, lúc này huyện có 17 xã. Năm 1994, thực hiện chia tách một số xã và thành lập thị trấn Trảng Bom, huyện từ 17 xã nâng lên thành 25 xã, thị trấn.

Năm 2003, thực hiện việc chia tách địa giới hành chính, đồng thời tiếp nhận 2 xã của thành phố Long Khánh, huyện Thống Nhất có 10 xã, thị trấn như hiện nay.

II. CON NGƯỜI, XÃ HỘI, TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC

1. Quá trình hình thành dân cư

Thống Nhất tuy là một huyện mới, nhưng cách đây từ 2.500 đến 3.000 năm đã có người xưa sinh sống trên địa bàn. Các nhà khảo cổ đã tìm được các công cụ ghè đẽo ở Dầu Giây, Dốc Mơ... Đó là những công cụ được người xưa ghè đẽo sơ sài để làm công cụ sản xuất, tự vệ chống lại thú dữ, tạo ra vào sơ kỳ đá cũ cách đây khoảng vài trăm ngàn năm.

Năm 1978, tại khu vực xã Gia Tân 1, Gia Tân 2, Gia Tân 3, Bình Lộc, nhân dân và các nhà khảo cổ cũng tìm thấy nhiều công cụ đồ đá cũ. Sự tồn tại của một nền văn hóa sơ kỳ đá cũ đang được giới khoa học tiếp tục xem xét, kiếm tìm và khẳng định. Tháng 11/1983, di chỉ khảo cổ dưới chân núi Võ Dõng đã được khai quật, phát lộ cuộc sống của con người có cách đây hàng ngàn năm. Như vậy, mảnh đất Thống Nhất cách đây gần 3.000 năm đã là địa bàn cư trú của người xưa. Ngoài nghề săn bắn, hái lượm đã biết chế tác ra những loại công cụ lao động bằng đá, sáng tạo nên những đồ gốm mỹ nghệ có dáng và hoa văn sinh động.

Sau khi Hiệp định Genève được ký kết (tháng 7/1954), hơn 150.000 đồng bào từ miền Bắc di cư vào Nam, được chính quyền Việt Nam cộng hòa cho định cư dọc theo Quốc lộ 1, Quốc lộ 20 như: Bàu Hàm 2, thị trấn Dầu Giây, Gia Tân 1, Gia Tân 2, Gia Tân 3, Gia Kiệm, Quang Trung.

Cùng với quá trình đẩy mạnh, mở rộng cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ, một số người dân từ các tỉnh miền Tây, miền Đông cũng về Thống Nhất sinh sống như: Mỹ Tho, Cần Thơ, Rạch Giá, Tây Ninh, Bình Phước, một số dân từ Trung Trung bộ, Phước Hải, Biên Hòa, Sài Gòn và đồng bào Hoa, Nùng… họ sống rải rác, xen lẫn trong các ấp với đồng bào Công Giáo di cư.

Ngoài người Kinh, huyện Thống Nhất còn có người Nùng[4]. Sau ngày miền Nam giải phóng, đồng bào từ khắp mọi miền đất nước tiếp tục về huyện Thống Nhất làm ăn, sinh sống, hình thành nên các khu dân cư mới, xã kinh tế mới (xã Lộ 25). Từ đặc điểm dân cư như trên cho thấy, huyện Thống Nhất có thể nói là hình ảnh một nước Việt Nam thu nhỏ, gồm nhiều thành phần dân tộc, đủ cả các miền Trung - Nam - Bắc của đất nước.

2. Về văn hóa - xã hội, tín ngưỡng

Do thành phần dân cư đa dạng, nên bản sắc văn hóa từ các tỉnh cũ trước đây được người dân mang theo vào vùng đất mới. Nhiều phong tục, tập quán trong đời sống sinh hoạt ngày nay của người dân huyện Thống Nhất vẫn còn mang đậm nét qua cách ăn mặc, cưới hỏi, ma chay, làm nhà, các mối quan hệ trong gia đình, họ hàng, thân tộc. Tinh thần đoàn kết xóm làng, sẵn sàng giúp đỡ người khác, xem trọng bạn bè… luôn được đề cao. Qua nhiều năm bị xáo trộn bởi chiến tranh, hay sự giao lưu văn hóa giữa các vùng, miền trên cả nước, văn hóa vật chất, tinh thần của người dân Thống Nhất vẫn không bị ảnh hưởng nhiều, nhất là trong lĩnh vực đời sống tinh thần.

Về tình hình tôn giáo, huyện Thống Nhất có 4 tôn giáo là Công Giáo, Phật Giáo, Tin Lành, Cao Đài, với 78 cơ sở tôn giáo và 543 chức sắc, tu sĩ, tăng, ni. Số lượng các tín đồ là 145.525/165.639 người, chiếm tỉ lệ 87,85% dân số toàn huyện.

Ngoài các công trình nhà thờ, dòng tu Công Giáo, trên  địa  bàn huyện còn có 18 cơ sở tín ngưỡng dân gian (4 Đình, 4 Đền và 10 Miếu). Có 3 di tích được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnhình Hưng Lộc, Vườn cao su đầu tiên sân điểm đồn điền cao su Dầu Giây, Đình Dầu Giây). Trong đó, đình Hưng Lộc (thuộc xã Hưng Lộc) được xác định có thời gian xây dựng sớm nhất[5]. Ngôi Đình thờ Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, vị thần của làng Hưng Lộc xưa.

3. Truyền thống đấu tranh và những hạt nhân cách mạng ban đầu

Trong bối cảnh chung của đất nước năm 1930, sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, mở đầu thời kỳ mới. Từ đây, phong trào đấu tranh chống Pháp của các tầng lớp nhân dân ở Biên Hòa diễn ra mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của các đảng viên và tổ chức Đảng Cộng sản. Lúc này, ở các đồn điền Dầu Giây, Bình Lộc, An Lộc… vẫn chưa có đảng viên hoạt động.

Cuối năm 1940, đồng chí Nguyễn Văn Long vào hoạt động ở các sở cao su Dầu Giây, Bình Lộc… để hoạt động, xây dựng và phát triển cơ sở cách mạng trong phong trào công nhân cao su. Cuối năm 1943, đồng chí Trịnh Văn Dục (Ba Dục) một đảng viên lâu năm được Đảng phân công về hoạt động ở Long Thành. Tháng 12/1940, hàng ngàn công nhân các sở Dầu Giây, Bình Lộc, An Lộc... đồng loạt bãi công đòi chủ không được đánh đập, cúp phạt công nhân, đòi thực hiện đúng giao kèo.

Ở sở Dầu Giây, cuối năm 1944, nổ ra cuộc đấu tranh của 200 công nhân, đòi bọn chủ sở phải trả công nhân về xứ vì đã mãn hạn giao kèo từ cuối năm 1943.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh của công nhân ở các đồn điền nổ ra liên tục và ngày càng mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh được tổ chức khá chặt chẽ, không chỉ ở phạm vi trong một đồn điền mà có sự liên kết diễn ra cùng một lúc nhiều đồn điền với quy mô ngày càng lớn. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi đã làm cho bọn chủ sở phải chấp nhận các yêu sách của công nhân.

III. NHÂN DÂN THỐNG NHẤT KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)

Trong điều kiện cách mạng đã chín muồi, từ ngày 9 đến 12/3/1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng chủ trương nêu khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” và phát động cao trào chống Nhật cứu nước, gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nắm được tinh thần đó, ở huyện Thống Nhất, đồng chí Trịnh Văn Dục đã lập ra 2 trại sản xuất ở Suối Bí, đưa số công nhân nghỉ việc ra làm rẫy.

Từ ngày 23/8 - 26/8/1945, cuộc khởi nghĩa ở tỉnh lỵ Biên Hòa diễn ra và thành công rực rỡ. Tại Hưng Lộc, ngày 23/8/1945, anh Nguyễn Cao Hàn dẫn một đội Thanh niên Tiền phong tay cầm dáo, mác, gậy gộc tiến vào đồn điền Ông Quế bắt vợ chồng Chánh sở là Aboux.

Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, cuộc sống mới bắt đầu và không kém phần bỡ ngỡ. Tổ chức bộ máy chính quyền hai quận Châu Thành và Xuân Lộc đã hình thành nhưng hoạt động chưa có hiệu quả cao. Vùng Dầu Giây, Hưng Lộc, Võ Dõng (xã Hoà Bình) gần như hoạt động tự phát thiếu sự chỉ đạo.

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Các Ủy ban xã Hưng Lộc, Võ Dõng, các Ban tự quản sở cao su Bình Lộc, Dầu Giây đã huy động lực lượng tự vệ chiến đấu, công nhân tham gia “tiêu khổ kháng chiến”.

Ngày 15/6/1949, tại khu Trảng Sim (Long Thành), Chi bộ đảng xã Hưng Lộc được thành lập. Đồng chí Nguyễn Văn Việt - Người đảng viên đầu tiên của Hưng Lộc được cử làm Bí thư chi bộ.

Cuối năm 1953, Trung ương Đảng mở chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao chiến dịch Điện Biên Phủ. Tỉnh ủy Thủ Biên phát động phong trào tiến công vũ trang, binh vận phối hợp chiến dịch. Đội vũ trang tuyên truyền Xuân Lộc hoạt động mạnh trên Quốc lộ 1, Quốc lộ 20, khu tập trung ngã 3 Dầu Giây, tiến công nhiều tháp canh địch. Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, thực dân Pháp chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán  ký Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam.

IV. NHÂN DÂN THỐNG NHẤT BƯỚC VÀO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1954 - 1975)

Cuối năm 1954, gần 500.000 dân di cư Công Giáo từ miền Bắc đã vào các tỉnh miền Đông Nam bộ (chiếm 1/3 dân số di cư ở toàn miền Nam Việt Nam).  Thành phần người di cư vào Gia Kiệm cũng rất đa dạng. Ngoài linh mục, giáo dân Công Giáo còn có binh lính, công chức từng làm việc trong bộ máy chính quyền Pháp, những tư sản thành thị, những địa chủ ở nông thôn miền Bắc...

Địa bàn các xã Hưng Lộc, Dầu Giây, Gia Kiệm… có Quốc lộ 1, Quốc lộ 20, có đường sắt Bắc-Nam, là cửa ngõ lớn ở phía Đông để vào Biên Hòa, Sài Gòn. Với vị trí này chính quyền Mỹ - Diệm đã bố trí dân di cư Công Giáo ở những hướng chiến lược. Trên Quốc lộ 20 từ ngã 3 Dầu Giây (nay là thị trấn Dầu Giây) đến Võ Dõng (nay thuộc xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất) chính quyền Việt Nam cộng hòa lập một trại lớn.

Từ tháng 6/1956 và những năm tiếp sau, Mỹ - Diệm mở các chiến dịch Trương Tấn Bửu, chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” khủng bố cán bộ cách mạng và trả thù những người kháng chiến cũ. Địch điều về Xuân Lộc nhiều tiểu đoàn quân đội phối hợp cùng cảnh sát, dân vệ, tề địa phương lùng sục bắt bớ và gây nên bao cảnh thương tâm đối với quần chúng nhân dân. Các khu căn cứ của ta thường xuyên bị càn quét và bị cài bọn mật vụ theo dõi.

Trong bối cảnh phong trào cách mạng ở địa phương vừa mới bắt đầu nhen nhóm thì cũng là lúc Mỹ - Diệm thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, lấy quốc sách ấp chiến lược làm xương sống.

Sau Chiến thắng Bình Giã (1964 - 1965), chính quyền, quân đội Việt Nam cộng hòa ngày càng suy yếu. Để duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam, đế quốc Mỹ quyết định đẩy mạnh chiến tranh, chuyển từ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Trên địa bàn xã Hưng Lộc, quân Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa đã triển khai lực lượng, đóng thêm nhiều đồn bót.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 của quân và dân huyện Trảng Bom, Xuân Lộc đã tạo điều kiện căng kéo, dàn mỏng lực lượng địch ở Biên Hòa, Long Khánh, góp một phần cùng quân dân toàn miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.

Ngày 27/1/1973 hiệp định Paris được ký kết mở ra một bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Để củng cố chế độ tay sai ở Sài Gòn, tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đế quốc Mỹ tăng viện trợ quân sự và bàn giao các căn cứ, hậu cứ quân sự, các phương tiện chiến tranh cho quân đội Việt Nam cộng hòa.

Năm 1974, Huyện ủy Thống Nhất, Xuân Lộc tiếp tục chủ trương đẩy mạnh đánh địch bằng 2 chân, 3 mũi. Với sự chỉ đạo sát của chi bộ, các đội công tác và cơ sở, phong trào nhân dân Gia Kiệm đấu tranh chống bắt lính, chống cướp của giết người vô tội, đòi ruộng đất đã nổ ra sôi nổi. Đồng bào di cư đã mạnh dạn tỏ thái độ căm ghét và nhận rõ bản chất chế độ Việt Nam cộng hòa.

Tháng 11/1974, Huyện ủy Thống Nhất đã triển khai quán triệt Chỉ thị 8 của Trung ương Cục và Nghị quyết của Tỉnh ủy Biên Hòa về đánh phá bình định, đồng thời đề ra yêu cầu nhiệm vụ của Đảng bộ trong mùa khô 1974 - 1975: “Lấy Bàu Hàm làm điểm chỉ đạo của huyện”, chuyển 5 xã (Bàu Hàm, Hưng Lộc, Trảng Bom 1, Trảng Bom 2, Cây Gáo), vùng tranh chấp lên ấp cơ bản giải phóng và giải phóng hoàn toàn, làm chủ mạnh các trục lộ giao thông, căn bản giải phóng Quốc lộ 1 (từ Trảng Bom đến ngã 3 Dầu Giây).

Ngày 17/4, Sư đoàn 6 và Trung đoàn Độc Lập 95b tiến công tiêu diệt Chiến đoàn 52, thu toàn bộ xe tăng của Chi đoàn 3 thiết giáp, chiếm lĩnh Bộ Chỉ huy dã chiến của Chiến đoàn 52 ở căn cứ Nguyễn Thái Học. Đường Quốc lộ 1 từ Xuân Lộc về Bàu Cá bị cắt đứt, Quốc lộ 20 từ Túc Trưng về ngã 3 Dầu Giây được giải phóng.

Ngày 21/4/1975, tuyến phòng thủ của địch ở Xuân Lộc bị ta đập tan, địch lại lấy Thống Nhất làm tuyến phòng thủ cuối cùng để giữ cửa ngõ vào Biên Hòa. Trong khí thế tiến công sôi nổi, Huyện ủy Thống Nhất quyết tâm: “Bằng lực lượng 3 mũi, dùng các đội xung kích của các ngành, giới với lực lượng chính trị, binh vận xây dựng khí thế khởi nghĩa rầm rộ, sôi nổi áp đảo kẻ thù, giải phóng xã ấp mình”. Đến 8 giờ ngày 27/4, ta chiếm ấp Hưng Nghĩa, xã Hưng Lộc được giải phóng.

 

V. HUYỆN THỐNG NHẤT 10 NĂM ĐẦU GIẢI PHÓNG (1975 - 1985)

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân huyện Thống Nhất bước vào thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân trong điều kiện và tình hình kinh tế, xã hội hết sức phức tạp, khó khăn. Đảng bộ huyện Thống Nhất chỉ có 70 đảng viên, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thống Nhất gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Hải, Phó Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy. Đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Liên, Tỉnh ủy viên được chỉ định làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Từ năm 1977- 1985, Đảng bộ huyện lâm thời tiến hành tổ chức 03 kỳ Đại hội. Trên cơ sở của các Nghị quyết Đại hội, Đảng bộ đã xây dựng khối đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng, từng bước xây dựng cơ sở vật chất, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong sản xuất, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đời sống mới. Trên cơ sở những thành tựu đạt được, Đảng bộ đã nghiêm khắc đánh giá những khuyết điểm, thiếu sót trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác Đảng, đoàn thể.... qua đó tìm ra những nguyên nhân và tìm ra biện pháp khắc phục, xây dựng phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm tiếp theo.

VI. ĐẢNG BỘ HUYỆN THỐNG NHẤT TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 - 1995)

Qua gần 10 năm (1986 - 1995) thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IV, V, VI, trong hoàn cảnh nhiều khó khăn, thử thách, nhưng Đảng bộ và nhân dân phấn đấu đạt những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế huyện phát triển, tiềm năng các thành phần kinh tế được phát huy, nông nghiệp - nông thôn từng bước đổi mới; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ ngày càng phát triển. GDP của huyện tăng bình quân 10,%/năm là mức tăng trưởng tương đối cao. Các cơ sở hạ tầng được bổ sung; ngân sách huyện ngày càng tăng lên. Lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt được nhiều kết quả nổi bật, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân cải thiện đáng kể. Công tác quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị, an toàn xã hội được giữ vững. Niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ngày càng nâng cao. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có sự chuyển biến rõ nét, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ được khôi phục từng bước và tăng cường, chất lượng tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên. Hệ thống chính trị được củng cố và phát huy hiệu quả. Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể ngày càng chặt chẽ. Đây chính là tiền đề thuận lợi để Đảng bộ huyện tiếp tục lãnh đạo nhân dân tạo nên sức mạnh đoàn kết, phấn đấu đưa huyện phát triển mạnh về mọi mặt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

VII. ĐẢNG BỘ HUYỆN THỐNG NHẤT LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1996 - 2003)

Trong 8 năm (1996 - 2003), huyện Thống Nhất bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện khó khăn và thử thách. Đảng bộ và nhân dân Thống Nhất không ngừng đoàn kết, phấn đấu trên nhiều mặt, tập trung lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội đạt được những kết quả quan trọng. Nổi bật về kinh tế, các mục tiêu cơ bản đều đạt và vượt chỉ tiêu, sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện; công nghiệp phát triển với tốc độ nhanh, từ đó đã thúc đẩy chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế thương mại - dịch vụ trên địa bàn, thu hút lực lượng lao động vào các khu công nghiệp. Bộ mặt nông thôn có chuyển biến tích cực, các chương trình xây dựng hạ tầng, xã hội như xóa hộ đói, giảm hộ nghèo đạt hiệu quả cao, nguồn nội lực trong xã hội bước đầu được phát huy. Các dịch vụ văn hóa, thể dục - thể thao phát triển với nhiều loại hình đa dạng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Công tác chăm lo các đối tượng chính sách được cải thiện; quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước được tăng cường. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có nhiều chuyển biến trong công tác vận động, tập hợp quần chúng. Quyền làm chủ của nhân dân được mở rộng, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước được củng cố và nâng lên.

Bên cạnh những thành quả đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế, như: kinh tế có phát triển nhưng chưa toàn diện và bền vững, vấn đề môi trường chưa giải quyết tốt. Tiềm năng của địa phương chưa được khai thác đúng mức. Sản xuất nông nghiệp thiếu ổn định, một bộ phận kinh tế hộ còn ở dạng thuần nông; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ, chưa đáp ứng yêu cầu; chưa tổ chức được mô hình thương mại - dịch vụ, hợp tác để tham gia chi phối thị trường. Việc khai thác khả năng đóng góp của nhân dân để phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội còn hạn chế; kỷ cương pháp luật tại một số địa bàn có lúc chưa nghiêm. Năng lực và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn lãnh đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ của Ban chấp hành Đảng bộ cũng như các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể còn hạn chế. Một số chỉ tiêu đề ra chưa đạt kết quả tốt.

Từ thực tiễn của quá trình phát triển, Đảng bộ huyện Thống Nhất nhìn nhận được những ưu thế, thuận lợi và cả những tồn tại yếu kém, rút ra những bài học kinh nghiệm, đề ra những giải pháp cụ thể trong quá trình lãnh đạo nhân dân địa phương thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội, góp phần cùng tỉnh nhà phát triển nhanh, mạnh trong xu thế hội nhập trước thời cơ và thách thức mới.

VIII. HUYỆN THỐNG NHẤT ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2004 - 2020)

Trải qua 16 năm từ khi chia tách huyện (2004 - 2020), Đảng bộ huyện Thống Nhất trải qua 3 kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện: Lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005 - 2010); lần thứ X (nhiệm kỳ 2010 - 2015); lần thứ XI (nhiệm kỳ 2015 - 2020). Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời, thường xuyên của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy, các sở, ban ngành tỉnh, huyện Thống Nhất từng bước phát triển đi lên. 

Về kinh tế, khi mới thành lập huyện Thống Nhất mang tính thuần nông. Đảng bộ huyện tập trung lãnh đạo toàn diện hệ thống chính trị phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới. Công tác quy hoạch, xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước được địa phương đẩy mạnh. Khi mới thành lập, từ chỗ không có khu công nghiệp, đến năm 2020, huyện đã có 3 khu công nghiệp tập trung, 3 cụm công nghiệp được quy hoạch với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn lao động ở địa phương; tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn huyện ngày tăng cao. Kinh tế nông nghiệp đạt được những thành quả nổi bật, huyện Thống Nhất được công đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2015, từ đó diện mạo nông thôn không ngừng thay đổi, hạ tầng giao thông, điện, trường học, trạm y tế,... ngày càng được hoàn thiện. Thu nhập bình quân đầu người từ 5,2 triệu đồng (2005) lên 68,4 triệu đồng năm 2020, tăng 63,2 triệu đồng. Các phong trào thi đua yêu nước đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần thiết thực trong xây dựng nông thôn mới.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền được Đảng bộ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời, thường xuyên đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Bước vào một thời kỳ phát triển mới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, kết quả đạt được toàn diện trên các lĩnh vực những năm gần đây là tiền đề quan trọng, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước. Tuy nhiên, kinh tế vẫn còn những hạn chế và gặp nhiều khó khăn, thách thức. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân, nhất là đại dịch CoVid-19 diễn ra vào cuối năm 2019. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, lệch chuẩn giá trị văn hóa; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tệ nạn tham nhũng, lãng phí vẫn là những thách thức cần được giải quyết. Các thế lực thù địch tiếp tục sử dụng mạng xã hội để gia tăng các hoạt động chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân… Vì vậy, Đảng bộ huyện xác định cần phải tiếp tục đổi mới, sáng tạo, lãnh đạo đồng bộ trên các lĩnh vực đời sống xã hội, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, huyện đề ra, xây dựng huyện Thống Nhất ngày càng phát triển giàu đẹp, văn minh.

 


[1] Tọa độ địa lý: Từ 107o03’4’’ đến 107o15’42’’ độ vĩ Bắc; từ 10o51’11’’ đến 10o50’58’’ độ kinh Đông.

[2] Số liệu năm 2020.

[3] Gồm: Thành phố Biên Hòa và các huyện: Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Long Thành, Long Đất, Châu Thành, Xuân Lộc, Tân Phú, Duyên Hải, thị xã Vũng Tàu.

[4] Người Nùng chia thành nhiều nhóm địa phương: Nùng Khen lài (mặc áo có ống tay ráp vải khác màu), Nùng Hu lài (đội khăn chàm có nhiều chấm trắng), Nùng Slử tỉn (mặc áo ngắn chấm mông)... Nùng An (quê châu An Kết), Nùng Inh (quê châu Long Anh), Nùng Lòi (quê châu Hạ Lôi), Nùng Cháo (quê Long Châu), Nùng Phàn Slình (quê châu Vạn Thành)...

[5] Khởi dựng vào năm 1912, đến năm 1918 (Khải Định thứ 2) được phong Sắc với danh hiệu: “Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng”. Ngày 2/12/2008, đình Hưng Lộc được Ủy ban nhân dân tỉnh ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 4070/QĐ-UBND.

  • Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Cao Tiến Dũng thăm tặng quà người có công tại huyện Thống Nhất

    Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Cao Tiến Dũng thăm tặng quà người có công tại huyện Thống Nhất

  • Huyện Thống Nhất tổ chức tiêu độc, khử trùng toàn bộ khu vực xung quanh gia đình nạn nhân tử vong do bị chó nghi dại cắn

    Huyện Thống Nhất tổ chức tiêu độc, khử trùng toàn bộ khu vực xung quanh gia đình nạn nhân tử vong do bị chó nghi dại cắn

  • Hiệu quả từ phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi

    Hiệu quả từ phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi

  • Chi bộ Văn phòng Đăng ký đất đai thực hiện chương trình giải quyết TTHC hưởng ứng kỷ niệm 94 năm ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2024) và 25 năm “ngày Dân vận cả nước”.

    Chi bộ Văn phòng Đăng ký đất đai thực hiện chương trình giải quyết TTHC hưởng ứng kỷ niệm 94 năm ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2024) và 25 năm “ngày Dân vận cả nước”.

  • Điều động, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý trên địa bàn huyện

    Điều động, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý trên địa bàn huyện

  • Hôm nay:   177
  • Tháng hiện tại:   3253
  • Tổng lượt truy cập:   41408