Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân

02/04/2025 21:47:28 9      Chọn cỡ chữ A a  

Thực tiễn gần 40 năm đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã khẳng định ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi. Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân là cơ sở, định hướng để Đảng và Nhà nước ta xây dựng chính sách phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội đối với các thành phần xã hội trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, mà kết quả của nó mà trước hết nhằm nâng cao đời sống Nhân dân sẽ đóng góp vào thành công của công cuộc đổi mới trong giai đoạn hiện nay.

PGS-TS Nguyễn Quốc Dũng-Ủy viên HĐ Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị khu vực II truyền đạt nội dung Chuyên đề 2025 tại hội nghị học tập, triển khai thực hiện Chuyên đề năm 2025 tỉnh Đồng Nai

I. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN LIỀN VỚI BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế

Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phát triển kinh tế là một trọng tâm của xây dựng nhà nước mới của Nhân dân, vì Nhân dân. Người đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo có tính nguyên tắc về phát triển kinh tế. Có thể khái quát như sau:

Một là, phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất. Bác chỉ rõ: “Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.

Hai là, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phải quan tâm phát triển cả nông nghiệp và công nghiệp. “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp,... hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”; “...làm cho công nghiệp và nông nghiệp tiến đều, thì mới cải tiến tốt đời sống của Nhân dân”.

Ba là, nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Người chỉ ra rằng, trong nước ta có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất: “Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ và một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”.

Bốn là, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho Nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”, “Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”. Đồng thời, Người luôn nhấn mạnh trong phát triển kinh tế phải chống tham ô, lãng phí, quan liêu là những thứ “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm.

Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”. 

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảm bảo an sinh xã hội

Trong suốt cuộc đời cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây là tư tưởng bao trùm triết lý về an sinh xã hội của Người.

Quan điểm của Người về an sinh xã hội đã được thể hiện từ rất sớm. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh (xuất bản năm 1927), Người đã nêu nội dung: “Lại có bất thường phí, như để dành phòng lúc bãi công hoặc giúp những hội khác bãi công, hoặc giúp đỡ những người trong hội mất việc làm, hoặc làm các công việc công ích”. 

Trong Diễn ca Mười Chính sách của Việt Minh năm 1941, Người đã đề cập đến những chính sách dành cho mọi đối tượng trong xã hội. Đến Chương trình Việt Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội được thể hiện rõ nét, đầy đủ hơn. Người đề cập đến việc thực hiện chế độ làm việc, tiền lương, bảo hiểm xã hội, chế độ hưu trí, cứu tế nông dân trong những năm mất mùa, hậu đãi binh lính và gia đình họ, giúp học sinh nghèo, chăm nom người già, tàn tật, trẻ em,...

Nói đi đôi với làm, trong thời gian giữ cương vị lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng đảm bảo chế độ tiền lương, hưu trí, bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe, trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, già yếu... Như vậy, mục tiêu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội là luôn vì cuộc sống hạnh phúc của mỗi người dân, nhằm đảm bảo đời sống của người dân. 

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống Nhân dân

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chăm lo đời sống Nhân dân chính là làm cho Nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng để Nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới và ngày càng được thụ hưởng đầy đủ về vật chất và tinh thần. Ngày 10/1/1946, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Là công bộc, là đày tớ của dân, thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ phải chăm lo cho đời sống của Nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân. Người nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.

4. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao đời sống Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập, tự do phải đi tới ấm no, hạnh phúc và phát triển. Triết lý phát triển Hồ Chí Minh cho thấy mục tiêu, lý tưởng mà thể chế chính trị ta đang xây dựng phải vì hạnh phúc của Nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao đời sống Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định ở định hướng phát triển bền vững, trong đó chứa đựng những yếu tố về xóa đói, xóa nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp, phổ cập giáo dục tiểu học, vấn đề chăm sóc sức khỏe, bảo đảm bền vững về môi trường,... Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao đời sống Nhân dân sẽ góp phần vào việc xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa cho con người Việt Nam với tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng; lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; mình vì mọi người, mọi người vì mình và với một mục đích là phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân.

Cùng với chính sách an sinh xã hội, trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Ngược lại, khi các vấn đề xã hội được giải quyết mang tính hợp lý, công bằng, tiến bộ thông qua chính sách an sinh xã hội sẽ góp phần tạo ra động lực mạnh mẽ để thực hiện các mục tiêu kinh tế. Chỉ trên cơ sở lấy mục tiêu phát triển kinh tế làm nền tảng cơ bản để thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội thì hạnh phúc con người mới được bảo đảm và xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng mới phát triển nhanh và bền vững.   

II. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN LIỀN VỚI BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân mang tính nhân văn sâu sắc và được vận dụng một cách hiệu quả vào việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế, chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Tư tưởng này của Người định hướng việc hoạch định chính sách phát triển thời kỳ đổi mới ở Việt Nam phải lấy việc phát huy nhân tố con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, con người vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể thực hiện chính sách phát triển kinh tế, chính sách an sinh xã hội hiện nay.

Kinh tế thị trường với quy luật vốn có tác động rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội cả chiều thuận và chiều nghịch. Một mặt, tạo cơ hội cho con người phát huy khả năng, tiềm năng vốn có của mình, kích thích mọi cá nhân, tập thể và toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác, các rủi ro về kinh tế, xã hội trong nước, trên toàn cầu ngày càng đa dạng, phức tạp, làm cho con người luôn có những bất an về mặt xã hội và bất lợi cao trong đời sống xã hội. Do vậy, cần khắc phục những rủi ro do cơ chế thị trường mang lại, nhằm phát huy vai trò nhân tố con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân trong thời gian tới.    

Con người là chủ thể, động lực của sự nghiệp đổi mới - quan điểm xuyên suốt của Đảng từ Đại hội lần thứ VI (1986) đến nay. Bất kỳ một đảng cầm quyền nào, nếu không xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của Nhân dân khi xây dựng, hoạch định chủ trương, chính sách thì chủ trương, chính sách đó, cũng như đảng cầm quyền đó sẽ bị lịch sử đào thải. Đề cập đến vấn đề này, Đại hội Đảng lần thứ XIII chủ trương: “Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”. “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân là nội dung cốt yếu, cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong nhiệm kỳ khóa XIII, cần “gắn bó chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”. Bên cạnh đó, Đảng chủ trương “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của Nhân dân”.

Description: C:\Users\Admin\Desktop\Đồng chí Mai Văn Hiền - Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện phát biểu tại Tọa đàm.jpg

Tọa đàm Chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh huyện Thống Nhất

III- VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN LIỀN BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

1. Thực trạng phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân tại tỉnh Đồng Nai hiện nay

Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía đông Thành phố Hồ Chí Minh và là một trung tâm kinh tế lớn của cả phía Nam. Trong những năm qua, tỉnh Đồng Nai đã thực hiện chính sách về phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân. Điều này được thể hiện qua nhiều chương trình về an sinh xã hội, phát triển hài hòa giữa thành thị và nông thôn. Trong thời gian qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh được đánh giá khá cao và ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, công nghiệp - dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn; các lĩnh vực văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân và bảo đảm an sinh xã hội đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân tại Đồng Nai đang đối diện với những vấn đề đặt ra như: Tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững. Sự phát triển công nghiệp nhanh chóng đã gây áp lực lên môi trường. Ô nhiễm không khí, nước, chất thải là những vấn đề Đồng Nai cần quan tâm giải quyết. Khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền, trong địa bàn tỉnh vẫn còn, cần có chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa. Cần nâng cao tỷ lệ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động. Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm trên không gian mạng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị ở một số trường học, trạm xá y tế còn thiếu thốn; chất lượng giáo dục - y tế ở vùng sâu, vùng xa chưa cao.

2. Vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân trên địa bàn tỉnh

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, bên cạnh việc chú trọng phát triển kinh tế, Đảng bộ tỉnh luôn đặt mục tiêu thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo cuộc sống nhân dân. Tỉnh đã đề ra 12 tiêu chí nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân gồm: nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; thúc đẩy các hoạt động rèn luyện thể chất, thể thao góp phần nâng cao thể trạng, sức khỏe và tinh thần của người dân; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa; nâng cao chất lượng hệ thống y tế cơ sở đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân; tập trung đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, bảo vệ tính mạng, mang lại cuộc sống an toàn và bình an cho người dân; từng bước cải thiện môi trường sống của người dân; thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số để phục vụ người dân, hướng tới xã hội số, chính quyền số và phát triển kinh tế số; chỉnh trang đô thị, thông thoáng lòng đường, vỉa hè cho người đi bộ; thực hiện bình đẳng giới; chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo nghề, đặc biệt là vấn đề việc làm trong giới trẻ; thúc đẩy, kêu gọi đầu tư nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, giảm dần các khu nhà trọ công nhân không đảm bảo an toàn; giảm tỷ lệ hộ nghèo, hướng tới giảm nghèo bền vững, tăng thu nhập cho người lao động hướng đến cuộc sống khá, giàu và thịnh vượng.

Mục tiêu của Đồng Nai là không ngừng nâng cao đời sống và phúc lợi xã hội, bảo đảm cho mọi người dân dễ dàng tiếp cận các cơ hội phát triển và thụ hưởng thành quả của quá trình đổi mới, phát triển. Vì vậy, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế gắn với bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân là kim chỉ nam cho sự phát triển bền vững, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau…

IV. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CỦA CÁC CÂP ỦY ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN

Đối với cấp ủy Đảng

Một là, chỉ đạo gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân với việc quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp. Việc học tập chuyên đề chính là chiều sâu của việc quán triệt thực hiện tốt Nghị quyết. Do đó, cần nắm vững quan điểm, nội dung, biện pháp chỉ đạo của Văn kiện Đại hội Đảng các cấp, từ đó lãnh đạo thực hiện có hiệu quả việc phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Hai là, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân bằng những hành động và việc làm cụ thể, thiết thực gắn với phong trào thi đua yêu nước ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Cấp ủy chi bộ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc học tập và làm theo Bác có trọng tâm, trọng điểm, gắn với chương trình, kế hoạch cụ thể thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Trong đó chú trọng mục tiêu và các khâu đột phá được Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025 thông qua; đồng thời tuyên truyền, tham mưu giải quyết tốt các vấn đề bức xúc, tồn tại, các yêu cầu thực tiễn đặt ra. Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước nhằm khơi dậy mạnh mẽ ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Ba là, tập trung lãnh đạo xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, không ngừng đổi mới phương pháp làm việc, năng động, sáng tạo hơn trong lãnh đạo, điều hành, người đứng đầu cơ quan phải tiêu biểu, gương mẫu, tiên phong trong rèn luyện, thực hiện chức trách nhiệm vụ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Thực hiện tốt các quy định về trách nhiệm nêu gương; tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và ngăn ngừa các biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên.

Bốn là, lãnh đạo nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chủ động ngăn chặn, loại bỏ thông tin xấu độc, xuyên tạc về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xuyên tạc, bôi nhọ những nỗ lực, quyết tâm của Đảng bộ và Nhân dân trong học tập và làm theo Bác.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân được thực hiện nghiêm túc, thực chất, hiệu quả. Kịp thời xử lý nghiêm các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm; tham mưu khen thưởng, biểu dương những mô hình hay, cách làm sáng tạo, các điển hình tiên tiến, tấm gương tiêu biểu.   

2. Đối với đảng viên

Một là, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trong thực hiện các chủ trương, chính sách, tiêu biểu, gương mẫu nơi cư trú, được nhân dân quý mến, tín nhiệm; thực hiện phương châm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Không ngừng học tập, nâng cao ý thức tu dưỡng “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”. Phát huy tinh thần lao động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Hai là, tích cực trau dồi và giữ gìn tư cách, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức; nỗ lực học tập, rèn luyện, nâng cao ý thức, bản lĩnh chính trị, gương mẫu trong lời nói, việc làm, chuẩn mực trong hành động, tạo niềm tin trong Nhân dân.

Ba là, tích cực tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân chung sức đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống của người dân tại địa phương. Nghiên cứu, bám sát tình hình thực tế, kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập trong thực hiện các chính sách, thủ tục hành chính hiện hành, lắng nghe ý kiến đóng góp, từ đó đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp nhằm đảm bảo người dân có thể tiếp cận và thụ hưởng tốt nhất.

Lê Hải

 

Bản in
  • Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Cao Tiến Dũng thăm tặng quà người có công tại huyện Thống Nhất

    Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Cao Tiến Dũng thăm tặng quà người có công tại huyện Thống Nhất

  • Huyện Thống Nhất tổ chức tiêu độc, khử trùng toàn bộ khu vực xung quanh gia đình nạn nhân tử vong do bị chó nghi dại cắn

    Huyện Thống Nhất tổ chức tiêu độc, khử trùng toàn bộ khu vực xung quanh gia đình nạn nhân tử vong do bị chó nghi dại cắn

  • Hiệu quả từ phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi

    Hiệu quả từ phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi

  • Chi bộ Văn phòng Đăng ký đất đai thực hiện chương trình giải quyết TTHC hưởng ứng kỷ niệm 94 năm ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2024) và 25 năm “ngày Dân vận cả nước”.

    Chi bộ Văn phòng Đăng ký đất đai thực hiện chương trình giải quyết TTHC hưởng ứng kỷ niệm 94 năm ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2024) và 25 năm “ngày Dân vận cả nước”.

  • Ông Hai Nhuận- người Đảng viên kỳ cựu 75 năm tuổi Đảng với những dấu ấn khó phai

    Ông Hai Nhuận- người Đảng viên kỳ cựu 75 năm tuổi Đảng với những dấu ấn khó phai

  • Hôm nay:   260
  • Tháng hiện tại:   778
  • Tổng lượt truy cập:   34904