Cuối tháng 3/1975, sau những thất bại liên tiếp trên các mặt trận miền Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh Đông Nam Bộ, Quân đội Sài Gòn đã tổ chức phòng tuyến Xuân Lộc (kéo dài từ khu vực xã Suối Cát (huyện Xuân Lộc) đến khu vực xã Suối Tre (thành phố Long Khánh hiện nay) trở thành “cánh cửa thép” để “tử thủ” Sài Gòn. Quân đội Sài Gòn tập trung rất nhiều đơn vị ở phòng tuyến Xuân Lộc gồm: Sư đoàn 18 (với hậu cứ ngay trong thị xã Long Khánh, nay là thành phố Long Khánh) và các đơn vị lính nhảy dù, thiết giáp, biệt động quân, thủy quân lục chiến… với mục tiêu giữ chặt phòng tuyến Xuân Lộc bằng bất cứ giá nào, đặc biệt sẽ cản bước của Quân giải phóng tiến về Sài Gòn.
Vì vậy, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở Chiến dịch Xuân Lộc, đập tan phòng tuyến Xuân Lộc. Lực lượng tham gia chiến dịch của Quân giải phóng gồm: Quân đoàn 4 (Sư đoàn 1, Sư đoàn 7, Trung đoàn độc lập 95B, Sư đoàn 6 tăng cường trong đội hình Quân đoàn 4) và các lực lượng vũ trang địa phương.
Trong chiến dịch Xuân Lộc, Dầu Giây là điểm trọng yếu nối Xuân Lộc với Biên Hòa. Quyết định ngừng tiến công các vị trí địch đang cố thủ trong thị xã, chuyển hoá thế trận, dùng “thế” để giải phóng Xuân Lộc, đánh chiếm Dầu Giây và Núi Thị là 1 quyết định mang tính chiến thuật của Bộ chỉ huy chiến dịch Xuân Lộc.
Xuất phát từ nhận định: đối với toàn tuyến phòng thủ Sài Gòn của địch, Xuân Lộc chỉ có giá trị khi được nối liền với Biên Hòa, nên Bộ chỉ huy Chiến dịch và Quân đoàn 4 chủ trương lập thế trận mới, cô lập và cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa bằng cách đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt đường số 1, chặn quân địch từ Biên Hòa, Trảng Bom lên phản kích và đánh chiếm Tân Phong; cắt đường số 2 đi Bà Rịa…
Rạng sáng 15/4/1975, pháo 130 ly của ta bắt đầu bắn phá sân bay Biên Hòa, chặn khả năng địch tiếp ứng bằng không lực. Cùng lúc đó, bằng 5 trận vận động tập kích, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B đã tiêu diệt sinh lực của Chiến đoàn 52 ngụy, thu 12 khẩu pháo và toàn bộ xe tăng của Chi đoàn 3 thiết giáp, tại sở chỉ huy dã chiến của Chiến đoàn 52. Đường số 1 từ Xuân Lộc tới Bàu Cá bị cắt. Đoạn đường 20 cuối cùng từ Túc Trưng đến ngã ba Dầu Giây do ta làm chủ.
Trong hơn 10 ngày chiến đấu, Quân đoàn 4 đã cùng các lực lượng vũ trang địa phương đã tiêu hao và tiêu diệt một lực lượng lớn của địch, gồm những đơn vị mạnh nhất, được tin cậy nhất như Sư đoàn 18, Trung đoàn 5 và Lữ đoàn 3 thiết giáp, Lữ đoàn 1 dù. Trong trận này, ta đã tiêu diệt 2.056 tên địch, bắt 2.785 tên, diệt và đánh thiệt hại nặng 3 chiến đoàn bộ binh, hai chi đoàn bọc thép, một số đơn vị pháo binh, biệt động, quân dù… Ta thu 48 ô tô, 1.499 súng (có 14 khẩu pháo 105 ly và 155 ly), 100.000 viên đạn các loại, phá hủy 16 ô tô, 42 xe tăng, xe bọc thép.
Có thể nói, tiến công Xuân Lộc được coi là một chuỗi các trận đánh ác liệt nhất, trong đó có trận chiến Dầu Giây. Chiếm được Dầu Giây, coi như quân ta đã phá được “Bản lề” của “Cánh cửa thép” Xuân Lộc. Từ đây, cửa ngõ đã được mở, quân giải phóng đã nhanh chóng tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Ngày 30/4/1975, Đại thắng Mùa xuân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta.
Chiến thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như tinh thần quật khởi của người Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Chiến thắng đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới như một trang sử chói lọi mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.
Một góc đô thị Dầu Giây hôm nay
Trong những năm chiến tranh giải phóng đất nước, huyện Thống Nhất được thực dân Pháp cũng như Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai ở Miền Nam xem đây là “căn cứ hậu phương” của chúng, là một địa bàn trọng điểm, một phòng tuyến vững chắc để chúng bảo vệ Biên Hòa, Sài Gòn. Mỹ - Ngụy thực hiện nhiều chính sách, thủ đoạn thâm độc, đàn áp đẫm máu hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta, nhưng với ý chí, nghị lực cùng với quyết tâm của cả nước, Đảng bộ, Nhân dân và lực lượng vũ trang của huyện đã kiên trì bám đất, bám dân, xây dựng, củng cố và phát triển cơ sở cách mạng.
Trong cuộc chiến chống Đế quốc Mỹ lâu dài, gian khổ, đồng bào, đồng chí, những người con ưu tú của huyện Thống Nhất đã chiến đấu kiên cường và hy sinh anh dũng, điển hình như: đội Du kích xã Hưng Lộc, Bàu Hàm 2. Lực lượng bộ đội chủ lực và du kích đã được sự che chở, đùm bọc, nuôi - giấu của Nhân dân địa phương. Với những chiến công và đóng góp to lớn của Đảng bộ, quân và dân địa phương, Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho huyện Thống Nhất cũ, xã Bàu Hàm 2 và Đội du kích xã Hưng Lộc được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.
Thống Nhất