Ông Hai Nhuận – tham gia hoạt động cách mạng trong những ngày tiền khởi nghĩa cách mạng tháng 8/1945. Ông đã được tặng Huy hiệu 70 năm tuồi Đảng, Huân chương chống Pháp hạng Ba, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất… Vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 28/9/2024 ông đã từ trần hưởng thọ 94 tuổi, trong niềm thương tiếc, kính trọng cán bộ, nhân dân khu phố Lập Thành, thị trấn Dầu Giây, huyện Thống Nhất và cán bộ, nhân dân Tồng công ty cao su Đồng Nai nơi ông đã từng công tác.
Từ một thanh niên công nhân yêu nước trở thành “chiến sĩ”công đoàn kháng chiến
Ông Hai Nhuận cái tên nghe rất Nam bộ, nhưng kỳ thực ông sinh ra ở xã Tuyên Thái, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam vào năm 1930. Tuổi thơ của ông cũng như bao đứa trẻ vùng quê khác phải trải qua vất vã, lam lũ, quanh năm do sưu cao, thuế nặng cùa chế độ thực dân phong kiến. Thế rồi, trong một chuyến hỏa xa do Công ty SIPH thuê, hòa vào dòng người dân phu, bố mẹ đưa ông vào nam lúc đó ông mới 6 tuổi, để đi tìm “Thiên đường cao su Nam kỳ” do giới chủ và kẻ mộ phu tuyên truyền:“ Vào nam làm cao su sẽ được hưởng lương cao, được ăn cơm trắng với thịt cá, có nhà cửa đầy đủ tiện nghi, có tiền về quê tậu ruộng, tậu trâu sinh sống suốt đời”… nhưng sự thực sau này ông thấy điều ngược lại. Đồn điền cao su An Lộc, dân phu cạo mũ như bố, mẹ của ông cơ cực thiếu thốn trăm bề, với chế độ làm việc hà khắc, lại bị giới chủ sếp, xu hành hạ. Chứng kiến thường ngày những sự bất công ngược đải của giới chủ đối với bà con công nhân nơi mình sinh sống và được sự tuyên truyền giáo dục của cán bộ Việt Minh, cậu thiếu niên Tạ Duy Nhuận sớm có lòng yêu nước giác ngộ cách mạng, sớm làm những việc có ích cho dân cho nước. Trong những năm 40, phong trào đấu tranh của công nhân cao su An Lộc, Dầu Giây ngày càng phát triền mạnh mẽ, các cuộc đấu tranh được tổ chức chu đáo và có sự liên kết phối hợp giữa đổn điền cao su này với đồn điền cao su khác thu hút đông đảo giới trẻ tham gia và giành được nhiều thắng lợi, nhất là về quyền lợi dân sinh. Năm 1944, cậu thiếu niên Tạ Duy Nhuận tham gia làm liên lạc cho cán bộ Việt Minh. Với nhiệm vụ dò la tin tức, báo cáo lại cho người phụ trách. Công việc thường ngày là phụ một công nhân làm thợ điện nên có điều kiện xâm nhập vào nhà máy, đồn bốt, nhà riêng của quan thầy để nắm bắt tình hình. Trước cách mạng tháng tám, vào tháng 7/1945 tổ chức Thanh niên Tiền phong An Lộc hình thành, đội ngũ lãnh đạo đội thanh niên gồm các đồng chí trong tiểu tổ Việt Minh, trong đó có đồng chí Lê Sắc Nghi sau này là trở thành lãnh đạo ngành cao su Việt Nam, ngày đêm tập hợp thanh niên luyện tập quân sự và hát vang những bài ca cách mạng Tiếng gọi Thanh niên, Lên đàng với khí thế xung thiên, trong đó có sự tham gia tích cực của liên lạc viên Tạ Duy Nhuận. Đêm 24 rạng ngày 25/8, thanh niên Tiền phong đồn điền An Lộc tổ chức mít tinh ở dinh Đồn trưởng Suối Tre, sau đó cùng với nhân dân vùng An Lộc nườm nượm kéo về ga Tân Lập, Ga Dầu Giây lên xe lữa về Sài gòn cướp chính quyền. Trong khí thế sôi sục cách mạng đó, thanh niên tiền phong Tạ Duy Nhuận có những ngày đáng nhớ không thể nào quên tham gia cướp chính quyền tại nhà điểm Đội A, lầu Tây ấp Phan Bội Châu thuộc đồn điền cao Suzannah, nay là nông trường cao su Dầu Giây, với tinh thần hừng hực rực cháy của tuổi trẻ, như bùng nổ sau bao ngày bị đè nén, kiềm tỏa. Phấn khởi hòa trong niềm vui chung của của những người công nhân, từ kiếp “cu li” bị đọa đày “trong địa ngục trần gian” với tấm thân “đổi mấy đồng xu” giờ đây đã ngững cao đầu bước vào làm chủ các nhà máy, công xưởng, đồn điền cao su.
Đầu năm 1947, Liên đoàn cao su tỉnh Biên Hòa được thành lập. Đây là tổ chức Công đoàn đầu tiên của các tỉnh miền Đông. Cũng năm này thanh niên Hai Nhuận tham gia vào tổ chức “Công đoàn cứu quốc” ở Đồn điền An Lộc và cùng các đồng chí: Năm Bình Minh, đồng chí Lê Thể…trở thành những hạt nhân nồng cốt, điểm tựa của phong trào trong tập hợp, tuyên truyền vận động công nhân. Khi chiến sự ngày càng khốc liệt, ông Hai Nhuận cùng các cán bộ công đoàn khác phải thoát ly lên chiến khu D, hoạt động như một “người lính” thực thụ. Cán bộ công đoàn phải vượt qua đồn bốt địch, phải mang theo vũ khí phòng thân, phải tìm cách xâm nhập cơ sở trong đêm tối. ngay cả việc tuyên truyền đường lối Việt Minh cũng đã khó, phải ý tứ tham dò đối tượng tuyên truyền, nếu không dễ bị lộ, an nguy đến tín mạng, tổ chức.
Từ năm 1948 đền 1950 ông là cán bộ công đoàn thuộc Liên đoàn Cao su tỉnh Biên Hòa. Từ năm 1951 là cán bộ công đoàn thuộc Liên đoàn cao su tỉnh Thủ Biên ( hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một nhập lại một). Địa bàn hoạt động của ông tãi rộng trên hai tỉnh với các địa danh An Lộc, Suối tre, Bình Sơn, Trảng Bom đến Bến Cát, Quản Lợi, Dầu Tiếng… đều in đậm dấu chân của ông. Ngày nay, ông vẫn còn nhớ như in hồi đó Dầu Tiếng có 22 làng và nhiều người cùng thời với ông trong 22 làng đó, giờ vẫn còn biết đến ông.
Dấu chân người lính trên chiến trường Đông Nam Bộ năm xưa
Năm 1952 ông Hai Nhuận xin vào quân ngũ, trỡ thành người lính của lực lượng vũ trang tuyên tuyền thuộc Đại đội Lê Hồng Phong, Bến Cát,Thủ Dầu Một. Năm ông trở thành người lính, chiến trường Đông Nam Bộ rất ác liệt, thừa cơ cơn bão năm Thìn và lũ lụt khủng khiếp khiếp năm đó, đầu năm 1953 thực dân Pháp mỡ chiến dịch kéo dài 52 ngày đêm, đơn vị của ông trải qua những ngày tháng gian khổ, nhưng vẫn kiên cường chiến đấu, đánh bật nhiều cuộc càn quyét của địch. Ông còn nhớ có một lần đưa đoàn cán bộ Cam Pu Chia từ căn cứ Dương Minh Châu về Bến Cát phải đi qua đồn điền Dầu Tiếng mà ở đây bót của giặc bố trí dày đặc, phải lợi dụng trờ mưa đêm tối cắt rừng đề vượt qua. Có một lần khác, làm nhiệm vụ đưa đón đoàn cán bộ của ta thuộc địa phận Bến Cát bị địch phục kích, một đồng chí bị thương và một đồng chí hy sinh, anh em phải thay nhau khiêng cáng đồng đội của mình suốt một ngày dài vất vã nhưng không một ai ngại khó, ngại khổ, có tiếng thở dài. Ông nói công tác giao liên đón đoàn thời đó thường hay đi trời mưa, mặc dù có vất vã nhiều nhưng độ an toàn cao vì không để lại dấu vết. Có một chi tiết tôi hỏi ông tại sao nhiều lúc ông nói khi đi hành quân trong các cách rừng cao su không phải nhìn xuống đất, ông nói rằng vì đi giữa khoảng cách hai hàng cao su (hàng cách hàng 6 hoặc 7 thước) do ở dưới đất bị bóng cây che tối, nhìn lên bầu trời có trăng sao soi sáng để đi và định hướng được nơi mình cần đến. Tôi càng thấm thía hơn câu thơ Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù không chỉ là rừng tự nhiên mà có cả cánh rừng cao su do con người tạo nên, góp phần không nhỏ vào công cuộc kháng chiến của dân tộc.
Năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, ông tập kết ra bắc, đóng quân ở Nông Cống Thanh Hóa, rồi tham gia tiểu phỉ ở Lạng Sơn năm 1956 trong biên chế sư đoàn 332. Năm 1959, ông được đơn vị cho đi học trường bổ túc văn hóa quân đội ở Cầu Giấy, Hà Nội sau đó ông thi vào trường Nông lâm Trung ương, kiến thức về quản lý nông nghiệp giúp cho ông sau này vững bước vào ngành nghề mới.
Huân chương kháng chiến – Phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước trao tặng
Khi người Người lính trở về với công nhân cao su xây dựng kinh tế
Ông Hai Nhuận trở lại nông trườg từ rất sớm vào những năm đầu miền bắc đang bước vào vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất với khí thế thi đua sôi nổi. Ngày 01/01/1961, nông trường quốc doanh Việt Trung (thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) chính thức được thành lập trên cơ sở hợp nhất 3 đơn vị: Nông trường quốc doanh Phú Quý, Nông trường quân đội Sen Bàng, trại chăn nuôi Thuận Đức, lúc đó trực thuộc Cục Nông nghiệp trung ương quản lý, đó cũng cũng là nơi đến của ông Hai Nhuận vào năm 1962. Nông trường trồng các loại cây lương thực, cây công nghiệp và chăn nuôi. Cây công nghiệp chủ yếu là cây cao su, hồ tiêu và cây sả. Vốn là con em công nhân cao su và được học quản lý nông nghiệp nên ông được bộ trí phụ trách kỷ thuật cao su. Trải qua các vị trí công tác khác nhau từ cán bộ kỹ thuật, Đội trưởng, Bí thư Chi bộ của một đội sản xuất đến Trưởng phòng nông nghiệp với trọng trách nào ông cũng hoàn tốt nhiệm vụ được giao, nhiều năm liên tục đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở. Trong điều kiện vừa sản xuất vừa chiến đấu chống đấu, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, cạo mũ bên hầm pháo cao xạ nhưng cán bộ, công nhân Nông trường Viêt-Trung đã làm nên được kỳ tich, 52,3 ha có sản có sản phẩm khai thác đều tiên đã đưa ông và một số cán bộ nông trường được ra Hà Nội dự triển lãm sản phẩm nông nghiệp, báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975 ông lại được cấp trên điều đồng vào miền Nam. Trở An Lộc, sau bao năm xa cách, ông lại gặp người lãnh đạo của ông thời thanh niên tiền phong, thanh niên cứu quốc đó là đồng chí Lê Sắc Nghi lúc này là Giám đốc Công ty cao su Đồng Nai, được thành lập vào ngày 02/6/ 1975 trên cơ sở tiếp quản 12 đồn điền cao su thuộc 4 công ty tư bản bản Pháp ( Công ty những đồn điền đất đỏ, Công ty đồn điền cao su Xuân Lộc, Công ty cao su Đồng Nai, công ty đồn điền cao su Đông Dương). Ông Lê sắc Nghi giao giao quyết định cho ông làm giám đốc nhà máy An Lộc và tươi cười nói một câu mà ông còn nhớ đời: “ Đồng chí về xây dựng lại nhà máy mà 29 năm trước đây đồng chí đã đốt”. Sau sáu năm khôi phục, ổn định nhà máy An Lộc, Ông được lãnh đạo chọn cử và phân công nhiệm vụ mới Hiệu trưởng trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ trực Công ty. Sau đó, ông lại được điều động về làm Giám đốc Nông trường cao su Bình Sơn (1984-1986), Giám đốc Nông trường Cao su Dầu Giây (1987-1988) rồi nghỉ hưu. Dù ở cương vị nào ông đều phấn đấu tận tụy với công việc, giữ uy tín cho bản thân, ông được bầu vào BCH Đảng bộ Công ty nhiệm kỳ II ( 1983-1986), BCH Công đoàn Công ty nhiệm III (1982-1987). Ngày nay đến nhà máy và những nông trường ông giữ vai trò là người đứng đầu, ngươi ta đều nói ông là người cán bộ liêm chính, gần gủi với anh em công nhân. Khi băng lô, lội suối đến kiểm tra công nhân cạo mũ, trồng mới ông vẫn thưởng đội nón cối, mặc áo quần bộ đội đã bạc màu, điều đó cũng dễ hiểu thôi bởi trước đây ông là người lính.
Một tấm lòng son sắc và những nổi niềm sâu lắng, nghĩa tình
Được trao huy hiệu 70 năm tuổi Đảng trong dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930-3/2/2020) tại hội trường Huyện ủy, đồng chí Bí thư Huyện ủy huyện Thống Nhất có mời ông phát biểu càm tưởng, ông xúc động đọc bài thơ “Biết ơn” của mình, được chuẩn bị nhiều ngày trước đó:
Hôm nay Đảng tặng huy hiệu cho con
Ghi công rèn luyện sắt son bền lòng
Đóa hoa tươi thắm sắc hồng
Kính dâng cha, mẹ đoái công sinh thành
Ơn Đảng là ơn cứu sinh
Kỳ công rèn luyện con thành Đảng viên
Ơn bao đồng chí thường xuyên
Phê bình, góp ý gắn liền tự phê
Ơn dân đùm bọc mọi bề
Con nguyện giữ tròn lời thề năm xưa.
Lời thề năm xưa trong lễ kết nạp Đảng ông luôn khắc cốt, ghi tâm, không bao giờ phai nhạt. Ông kết nạp Đảng vào ngày 15/11/1949, ngày chính thúc 17/11/1950 tại xã Thái Thiện, Long Thành. Trong thời gian này phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp với "Cao su chiến" của công nhân các đồn điền cao su phát triển mạnh, một phần nhờ vào công tác vận động tuyên truyền của đông đảo cán bộ công đoàn kháng chiến tích cực, gan dạ không sợ hiểm nguy, trong đó có ông Hai Nhuận. Lịch sử ngày nay còn ghi: "Ngày 02/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 134b/SL tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng ba cho Liên đoàn cao su Đông Nam Bộ, trong sắc lệnh nêu rõ: Phong trào nổi bật nhất là ở Suối tre (An Lộc) và Dầu Tiếng". Lúc còn sống, Ông Hai Nhuận rất tự hào về điều đó, bởi hai địa danh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc đến cũng là địa bàn hoạt động chính của ông thời tham gia công đoàn kháng chiến, cũng là nơi mà vào sinh ra tử và có nhiều kỷ niệm khó quên.
Người lập kỷ lục về số lần bầu cừ Quốc hội giờ đã ra đi, trong niềm thương tiếc, tự hào, kinh trọng.
Ông Hai nhuận là người nắm kỷ lục cao nhất về số lần đi bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân các cấp ở huyện Thống Nhất. 15 lân đi bỏ phiếu, lần đầu tiên vào năm 1946.
Tại Trụ sở Khu phố Lập thành thị trấn Dầu Giây, lần bầu Quốc hội khóa XIV, Khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp đã chứng kiến bước chân chậm rải. chống gây của ông đến điểm bầu cử rất sớm đề hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ của một cử tri.
Một lòng son sắc với Đảng, trung kiên với cách mạng, tận tụy với công việc, nghãa tình với nhân dân, cuộc đời và sự nghiệp của ông là những dáu ấu khó phai trong phong trào đấu tranh công nhân cao su và lịch và Đảng bộ huyện Thống Nhất, thế hệ trẻ đảng viên chúng tôi luôn tri ân và học tập noi theo./.
Trần Luyến (Cán bộ Tuyên giáo Phòng Nội vụ)