Trong lịch sử phát triển của loài người, đến hiện tại con người đã trải qua 05 hình thái kinh tế - xã hội, trong quá trình lao động, bên cạnh việc sản xuất ra của cải, vật chất cho xã hội thì việc con người chưa có trách nhiệm với môi trường thiên nhiên, dẫn đến biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên, sử dụng lãng phí năng lượng… đang quay trở lại tác động đến chúng ta. Vì vậy, chuyển đổi mô hình kinh tế từ “nâu” sang “xanh”, từng bước xanh hóa sản xuất đang là một xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới, hướng tới thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững trong tương lai.
Thế giới có rất nhiều định nghĩa về nền kinh tế xanh, nhưng có lẽ định nghĩa của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) là chính xác và đầy đủ nhất: Nền kinh tế xanh là nền kinh tế nâng cao đời sống con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời, giảm thiểu đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái. “Kinh tế xanh” là thuật ngữ chính thức được cộng đồng quốc tế sử dụng tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững (tháng 6/2012) tại Rio de Janeiro, Braxin (Rio+20) và hiện nay được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Các yếu tố chính của “nền kinh tế xanh” bao gồm: (1) Đầu tư vào vốn tài nguyên; (2) Tạo việc làm và công bằng xã hội; (3) Thay thế năng lượng hóa thạch bằng năng lượng tái tạo và công nghệ ít carbon; (4) Khuyến khích sử dụng nguồn lực và năng lượng hiệu quả hơn; (5) Đô thị bền vững và giao thông ít carbon; (6) Cơ chế tài chính, tài khóa; (7) Hệ thống pháp luật, chính sách hỗ trợ.
Việt Nam khi đề cập đến vấn đề này, trước đây hay dùng từ “bảo vệ môi trường” như: tại Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, nêu: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”[1]. Từ Đại hội IX, Đảng ta thêm yếu tố “bền vững” trong quá trình phát triển đất nước: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[2]; Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”; “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”[3]; Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe Nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”[4].
Xác định tăng trưởng xanh là chìa khóa của phát triển bền vững, Chính phủ đã ban hành hai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho hai giai đoạn 2011-2020 và 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050, đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển xanh, bền vững. Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 07/6/2022, đây là bước ngoặt quan trọng góp phần cụ thể hóa mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu phát thải ròng về “0” (Net Zezo) vào năm 2050. Tại COP26, Chính phủ Việt Nam cam kết mạnh mẽ giảm phát thải ròng về 0 đến năm 2050. Tại COP28, Việt Nam đã có kế hoạch quốc gia để huy động nguồn lực chuyển đổi theo thỏa thuận. Sau cam kết của Việt Nam tại COP26, để phù hợp với tình hình thực tế, Thủ tướng Chính phủ đã ký 02 quyết định, gồm: Quyết định số 888/QĐ-TTg, ngày 25/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (Hội nghị COP26) và Quyết định số 896/QĐ-TTg, ngày 26/7/2022 về Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.
Hội thảo “Xu hướng net zero của thế giới và định hướng phát triển xanh, bền vững tỉnh Đồng Nai” tổ chức ngày 26/3/2024 tại Trụ sở Tỉnh ủy
Hội thảo khoa học “Ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ để triển khai thực hiện Đề án NetZero” do Liên Hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh
phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh và Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường tỉnh tổ chức ngày 12/7/2024
Như vậy, có thể thấy rằng Đảng ta đã sớm nhận thức các vấn đề phát sinh liên quan đến môi trường và định hướng để phát triển theo xu hướng bền vững. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, hiệu quả triển khai các định hướng, chính sách xanh hóa kinh tế còn chưa cao, nhất là việc đánh giá các nguồn lực, xây dựng mô hình phát triển kinh tế xanh, tăng trưởng xanh chưa được như mong muốn. Hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường, vi phạm những quy định về bảo vệ môi trường,... vẫn đang tiếp diễn ngày càng phức tạp hơn. “Mặc dù Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, liên tục và ổn định trong khu vực Đông Nam Á với tốc độ tăng trưởng trung bình 6,1% trong giai đoạn 2011-2023, tuy nhiên, tăng trưởng ở Việt Nam cũng là nguyên nhân dẫn đến lượng phát thải CO2 tăng cao. Theo dự báo của các chuyên gia, mức phát thải khí CO2 của Việt Nam sẽ lên tới gần 471 triệu tấn vào năm 2030, mỗi năm, Việt Nam có lượng chất thải nhựa phát sinh khoảng 1,83 triệu tấn; mỗi ngày khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng hơn 61.000 tấn, trong đó, có tới 71% tổng lượng chất thải (tương đương 43 nghìn tấn/ngày) được xử lý bằng phương pháp chôn lấp; nhiều tài nguyên hiện đang suy giảm nghiêm trọng. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, vấn đề ô nhiễm nước có thể gây thiệt hại cho Việt Nam tới 3,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2035. Việt Nam cũng là một trong số các quốc gia dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu với thiệt hại lên tới 11% GDP vào năm 2030”.[5] Bên cạnh đó, nhận thức về kinh tế xanh ở Việt Nam còn mới, nhiều vấn đề chưa rõ, đòi hỏi phải tiếp tục có những nghiên cứu và phổ biến kiến thức rộng rãi trong xã hội; vấn đề nguồn lực và thu hút đầu tư vẫn còn hạn chế, …
Đã xác định rõ “kinh tế xanh” là xu thế tất yếu, và để thực hiện tốt, thiết nghĩ bên cạnh chủ trương của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nước là nền tảng rất quan trọng trong định hướng thì sự thay đổi về nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường sống, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên để bảo đảm phát triển mà không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, thay đổi lối sống xanh thành một nếp sống văn hóa cũng là một yếu tố quan trọng không kém để các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1999, t.55, tr.313
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.239
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.30, 99
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.116-117
[5] TS. Hoàng Ngọc Hải: “Chính sách công nghiệp xanh hướng tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 09/4/2024. Truy cập ngày 01/6/2024. (https://www.tapchicongsan.org.vn)
Ngọc Ánh