Năm 2024, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sẽ có nhiều hoạt động kỷ niệm 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” (1954-2024). Mở đầu một trong các hoạt động kỷ niệm đó là tiếp tục nghiên cứu “công tác chuẩn bị mọi mặt chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954” để thấy được sự thận trọng, kỹ lưỡng, chủ động của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuối năm 1953, trải qua 8 năm chiến tranh, giữa ta và quân đội Pháp đều chọn Điện Biên Phủ làm địa điểm tiến hành trận quyết chiến cuối cùng để kết thúc chiến tranh. Do đó, chúng ta xác định công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ giữ vai trò sống còn đối với mục đích đặt ra giành thắng lợi của quân dân ta.
Ngược thời gian trở về quá khứ, vào Thu - Đông năm 1947, quân đội Pháp chủ động tổ chức tấn công vào căn cứ địa Việt Bắc nhưng bị thất bại nặng nề, làm cho chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng bị phá sản, buộc quân Pháp phải chuyển sang đánh lâu dài với ta, báo hiệu sự thất bại của đội quân xâm lược là không tránh khỏi. Sau đó, (ngày 16/9 đến 14/10/1950), quân dân ta chủ động mở chiến dịch Biên Giới Thu - Đông giành thắng lợi vang dội, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ta bước sang giai đoạn mới, thế và lực của ta ngày càng mạnh mẽ, quân ta chuyển từ “phòng ngự bị động” sang “chủ động tiến công” địch trên chiến trường, ngược lại quân Pháp ngày càng bị động, chịu nhiều tổn thất nặng nề.
Để cứu vãn tình hình, Chính phủ Pháp một mặt xin thêm viện trợ Mỹ, mặt khác thay đổi chỉ huy và kế hoạch tác chiến hòng tìm lối thoát danh dự bằng một thắng lợi quân sự trên chiến trường, giành ưu thế trên bàn đàm phán. Tháng 5/1953, được sự ủng hộ của Mỹ, Chính phủ Pháp cử tướng Hăngri Nava, Tham mưu trưởng lục quân Pháp thuộc khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) đóng ở Trung Âu làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau khi khảo sát, tìm hiểu thực tế chiến trường, Nava đề ra một kế hoạch quân sự toàn diện (kế hoạch Nava), được Chính phủ và Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua ngày 24/7/1953 hòng giành lại thế chủ động của quân Pháp trên chiến trường.
Nhận rõ thủ đoạn của thực dân Pháp trong kế hoạch Nava, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự, phân tích sâu sắc thế chiến lược giữa ta và địch, ra nghị quyết thông qua kế hoạch tác chiến Đông - Xuân (1953-1954), giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn Đông Dương, nhấn mạnh phương châm chiến đấu: “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”.
Trước âm mưu, thủ đoạn mới của kế hoạch Nava tập trung lực lượng quân sự mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ hòng làm tiêu hao, suy giảm lực lượng chiến đấu của ta; dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, quân ta đã chủ động mở nhiều mũi tiến công quân Pháp ở Tây Bắc, Thượng Lào, Hòa Bình, Tây Nguyên…buộc chúng phải phân tán lực lượng, làm suy giảm sức mạnh tập trung binh lực của quân Pháp, nhưng phát huy tối đa ưu thế chiến tranh du kích của quân dân ta. Do đó, kế hoạch Nava của quân đội Pháp phải thay đổi hình thức bố trí lực lượng tác chiến so với dự kiến của chúng.
Chấp nhận cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ, Nava tập trung mọi cố gắng, với sự giúp đỡ rất lớn của Mỹ, xây dựng Điện Biên Phủ - vị trí có ý nghĩa chiến lược không chỉ đối với Tây Bắc Việt Nam mà cả vùng Thượng Lào và Bắc Đông Dương thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương, “một pháo đài bất khả xâm phạm”, gồm 49 cứ điểm, chia thành ba phân khu yểm hộ lẫn nhau, có cơ cấu phòng ngự vững chắc. Địch đã cho tập trung ở đây hơn 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 03 tiểu đoàn pháo binh, 01 tiểu đoàn công binh, 01 đại đội xe tăng, 01 phi đội không quân, 01 đại đội vận tải cơ giới, với ý đồ thách thức quân và dân ta, nghiền nát quân chủ lực của ta.
Trên cơ sở nắm chắc mọi âm mưu, hành động của địch, phân tích, đánh giá tình hình một cách khoa học, đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy và giao cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, UVBCTị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”[1].
Về chuẩn bị lực lượng, với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ gồm 04 đại đoàn bộ binh, 01 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000 cán bộ, chiến sĩ. Chấp hành quyết định của Bộ Chính trị, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành khẩn trương. Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Ngoài lực lượng chủ lực chiến đấu trực tiếp, các lực lượng hỗ trợ chiến đấu cũng được gấp rút chuẩn bị sẵn sàng phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ. Một hậu phương rộng lớn của đất nước, từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc đến vùng du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng mới giải phóng ở Thượng Lào, đều dồn sức người, sức của với hơn 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch[2].
Về lực lượng hậu cần, xây dựng đường sá, chuẩn bị lương thực, quân trang, quân dụng…được tiến hành khẩn trương. Tổng Quân ủy nhận định: “Để tiến hành chiến dịch rất lớn này, ta có nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất vẫn là cung cấp, mà chủ yếu là về đường sá”[3]. Điện Biên Phủ ở xa hậu phương tới 600 km, địa hình chủ yếu là rừng núi hiểm trở, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, mưa nắng thất thường. Đặc biệt, chỉ có đường 41 từ Hòa Bình qua Mộc Châu, Sơn La, Tuần Giáo đến Lai Châu là đường cơ giới duy nhất lên Tây Bắc, nhưng lòng đường hẹp, cầu yếu, nhiều đoạn sụt lở và ngang qua những khu vực địa hình hiểm trở, núi cao, suối sâu. Do đó, Trung ương chỉ rõ: “Công tác dân công là công tác chính trị… Đối với các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cơ sở yếu, thiếu cán bộ, phải cố tìm cho được những phần tử tích cực ở địa phương làm cán bộ và phải giúp đỡ, hướng dẫn họ trong công tác”[4].
Do nhu cầu vận chuyển bảo đảm chiến dịch rất lớn, nhất là khi ta chuyển phương châm tác chiến. Ban đầu, dự kiến nhu cầu đạn cho Chiến dịch là hơn 400 tấn, nhưng sau khi chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc” lên tới hơn một nghìn tấn. Khác với công tác bảo đảm hậu cần, công tác bảo đảm kỹ thuật không thể khai thác tại chỗ, mà phải đưa từ nơi khác tới. Bởi vậy, để đáp ứng nhu cầu đó, toàn bộ 16 đại đội ô tô vận tải với 534 xe và hơn 800 lái xe, trên 300 thợ sửa chữa của Tổng cục đã được sử dụng; có thời gian còn được tăng cường 94 xe của các các đơn vị pháo binh, phòng không. Hội đồng Cung cấp đã huy động 261.451 dân công và thanh niên xung phong, 20.000 xe đạp thồ, 17.000 ngựa thồ, trên 4.000 thuyền, mảng các loại,...[5]. Nhờ đó, chỉ trong thời gian ngắn, các địa phương ở: Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Thanh Hóa đã huy động được 23.126 tấn gạo; 922 tấn thịt; 800 tấn rau; 226 tấn muối; 917 tấn thực phẩm khác,… trên 261.000 lượt dân công với 12 triệu ngày công phục vụ chiến dịch[6].
Nhận thức rõ, vận tải là khâu trung tâm của công tác hậu cần, Bộ Chỉ huy Chiến dịch đã tập trung chỉ đạo giải quyết thành công nhiều vấn đề về công tác vận tải, từ phân tuyến vận tải đến tổ chức, chỉ huy, điều hành, đảm bảo vận tải,... Khác với các chiến dịch trước đó, trên cơ sở phương châm tác chiến chiến dịch, do nhu cầu vận tải lớn, tuyến vận tải dài,… Tổng cục Cung cấp xác định: lấy vận tải cơ giới (VTCG) là chủ yếu, triệt để phát huy cơ giới, đồng thời hết sức tranh thủ mọi phương tiện thô sơ. Thực hiện phương châm đó, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ phương thức VTCG với vận tải thô sơ (VTTS), huy động cao nhất VTCG, phát huy thế mạnh của từng phương thức, phù hợp với điều kiện địa hình. Chiến dịch đã huy động sử dụng toàn bộ 16 đại đội ô tô vận tải hiện có lúc đó; 02 vạn xe đạp thồ; gần 4.500 thuyền, mảng cùng hàng trăm xe ngựa, xe trâu, bò kéo. Thực tế, trên 90% khối lượng vận chuyển do VTCG đảm nhiệm[7]. Do đó, đến đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã hoàn tất, quân dân ta chờ thời gian khai hỏa mở màn trận quyết chiến cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược.
Với công tác chuẩn bị mọi mặt chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 của Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà nhà báo Giuyn Roa, nguyên đại tá Quân đội Pháp đã viết: “... không phải viện trợ của Trung Quốc đã đánh bại tướng Nava, mà đó là những chiếc xe đạp Pơgiô thồ 200-300 kg hàng, do những dân công ăn không no, ngủ trên những tấm ni lon trải ngay trên mặt đất. Tướng Nava bị đánh bại bởi trí thông minh và quyết tâm chiến thắng của đối phương”[8] quân dân Việt Nam đồng lòng, đoàn kết tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.
Kỷ niệm 70 năm công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954-2024), là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên nói riêng, người dân trong và ngoài nước nói chung càng trân quý hơn nữa những công hiến, đóng góp, hy sinh của các thế hệ cha ông, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh để bảo vệ nền độc lập, tự do cho chúng ta hôm nay. Qua đó, mỗi chúng ta không ngừng khơi dậy khát vọng hoàn thiện bản thân, góp phần đưa gia đình, địa phương, đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.
[1] Bảo tàng Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, tr.462
[2] Đề cương Tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (https://www.tuyengiao.vn/de-cuong-tuyen-truyen-ky-niem-70-nam-chien-thang-dien-bien-phu-152552) truy cập ngày 28/02/2024
[3] Tổng cục Hậu cần (1993), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1 (1944 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, tr.270.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001),Văn kiện Đảng, Toàn tập, t.14, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.345-346.
[5] Nguyễn Xuân Trường (2019), Công tác kỹ thuật trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-ngay-ky-niem-lon/cong-tac-ky-thuat-trong-chien-dich-dien-bien-phu/13601.html) ngày truy cập 28/02/2024
[6] Tổng cục Hậu cần (1993), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1 (1944 - 1954), Nxb quân đội nhân dân, tr.305-306.
[7] Nguyễn Vĩnh Phú (2014), Bài học về công tác hậu cần trong Chiến dịch lịch sử (http://tapchiqptd.vn/vi/van-de-chung/bai-hoc-ve-cong-tac-hau-can-trong-chien-dich-lich-su/5445.html) truy cập ngày 28/02/2024
[8] Tổng cục Hậu cần (1993), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1 (1944 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, tr.281.
Lê Quang Cần