Nằm trong chuỗi các vấn đề nghiên cứu kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954-07/5/2024), đó là “Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo công tác binh vận góp phần thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954”.
Công tác binh địch vận của Đảng thời kỳ chống ngoại xâm
Theo từ điển tiếng Việt: Binh vận có nghĩa là tuyên truyền, vận động binh sĩ địch. Công tác binh vận [1] là vận động binh sĩ địch thực hiện theo đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta. Công tác binh địch vận hay binh vận “là một bộ phận công tác vận động cách mạng của Đảng, một mũi tiến công của cách mạng, của nghệ thuật quân sự Việt Nam, một mặt của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được bắt nguồn từ đường lối và phương pháp cách mạng, có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động tướng sĩ, binh sĩ, nhân dân nước địch, bộ máy ngụy quân, ngụy quyền của địch và bộ phận của những người bị lừa gạt, khống chế. Nhằm góp phần làm sáng tỏ chính nghĩa của ta; làm cho kẻ địch bị chia rẽ, cô lập và suy yếu; làm thất bại mọi âm mưu, hành động thù địch của chúng bằng tổng thể các biện pháp chính trị, tư tưởng và tổ chức”[2].
Công tác binh địch vận là hoạt động của tuyên truyền, vận động chính trị để tác động vào tâm lý, tư tưởng, tình cảm, lẽ phải, chân lý đối với binh sĩ, tướng lĩnh của đối phương trong điều kiện, hoàn cảnh chiến tranh. Tùy vào từng thời kỳ, công tác binh vận có những tên gọi khác nhau như: tâm công, địch vận (trong cuộc kháng chiến chống Pháp), binh địch vận (trong cuộc kháng chiến chống Mỹ) và tuyên truyền đặc biệt sau kháng chiến chống Mỹ. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng ở mỗi giai đoạn cụ thể có sự bổ sung, phát triển về nội dung, phương thức hoạt động, phương châm chỉ đạo, đối tượng vận động cho phù hợp với điều kiện, tình hình cụ thể. Công tác binh vận có vai trò đánh vào tư tưởng tinh thần của binh sĩ đối phương, trước tiên làm cho họ nhận thức rõ tính phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược mà họ tiến hành, đồng thời, thấy được tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Nhân dân Việt Nam. Lực lượng tham gia công tác binh vận gồm cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân[3].
Công tác binh vận của Đảng ở Nam Bộ đối với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954
Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, can thiệp Mỹ của Nhân dân ta bước vào giai đoạn cuối. Trong bối cảnh đó, thế và lực của quân dân ta không ngừng tăng lên trên chiến trường từ Bắc chí Nam. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta từng bước phá vỡ ưu thế quân sự theo kế hoạch Nava của Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chúng phải phân tán lực lượng theo chiến thuật của ta. Do đó, quân Pháp và sự can thiệp của Mỹ ngày càng bị sa lầy trên chiến trường, chúng buộc phải dốc toàn lực củng cố lại chiến trường với việc xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo mục đích “bất khả xâm phạm” đối với các lực lượng cách mạng. Nếu lấy Điện Biên Phủ làm trung tâm, thì Nam Bộ là chiến trường xa nhất đối với quân dân ta. Tuy nhiên, thực dân Pháp, lực lượng can thiệp Mỹ xác định địa bàn Nam Bộ có vị trí, vai trò hết sức nhạy cảm về chiến lược, có tầm quan trọng rất đặc biệt, thuận lợi giao thông kết nối đối với các đối tác của địch, và là mảnh đất giàu có cung cấp nguồn nhân lực, vật lực để phục vụ chiến tranh. Đồng thời, Nam Bộ có nhiều quyền lợi đối với Mỹ trước mắt và lâu dài nên buộc thực dân Pháp ra sức bảo vệ để đổi lại sự viện trợ quân sự của chính quyền Mỹ.
Trước âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng hình thái chiến trường cả nước, thế mạnh và hạn chế của địch, thế và lực của quân dân ta, Đảng ta xác định chiến trường Nam Bộ là hướng phối hợp quan trọng, có vai trò, nhiệm vụ phân tán, cầm chân, chia rẽ lực lượng địch, tăng cường làm tiêu hao sinh lực địch, gây sự bất ổn ngay tại hậu phương chính của chúng. Theo sự chỉ đạo của Đảng, Trung ương Cục miền Nam ban hành Nghị quyết số 01/NQ-TWC, ngày 10/9/1953 “Hội nghị địch ngụy vận toàn Nam Bộ ngày 29/8/1953” nhằm khái quát toàn diện tình hình chiến trường cả nước nói chung, ở Nam Bộ nói riêng. Về âm mưu của Pháp Mỹ và bù nhìn trong chính sách dùng người Việt đánh người Việt, Trung ương Cục xác định: Muốn tiếp tục và kéo dài chiến tranh ở Đông Dương và để trám vào lỗ thủng thiếu hụt quân số, địch phải đẩy mạnh chính sách dùng “Người Việt đánh người Việt”, “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”. Chúng dùng đủ mánh khóe, âm mưu để dựng lên chính phủ bù nhìn phản động, ra chiêu bài độc lập giả hiệu và ráo riết bắt lính một cách táo bạo để thành lập các đội quân bù nhìn. Để thực hiện âm mưu, thủ đoạn này, thực dân Pháp, can thiệp Mỹ thành lập đội quân quốc gia bù nhìn, địch giả vờ dùng những màu sắc chính trị đưa ra để tuyên truyền, lừa bịp đồng bào ta dưới chiêu bài “chống cộng, chống ngoại bang độc tài” và nêu cao tinh thần quốc gia tư sản phản động, độc lập giả hiệu. Đi đôi với việc tuyên truyền lừa bịp ấy, địch dùng mọi thủ đoạn quỷ quyệt để khủng bố, dụ dỗ, mua chuộc, chia rẽ…[4] đối với Nhân dân ta.
Trên cơ sở đánh giá tình hình ưu điểm, hạn chế công tác binh vận thời gian qua, Trung ương Cục miền Nam đề ra chủ trương, giải pháp thực hiện công tác binh vận từ cuối năm 1953, đến năm 1954 trên chiến trường Nam Bộ nhằm phối hợp, hỗ trợ chiến trường Bắc Bộ với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Theo đó, Trung ương Cục miền Nam xác định: Nam Bộ là cái kho nhân vật lực dồi dào, đông người nhiều của. Cho nên địch đang cố tìm mọi cách càn quét để cố vơ vét, thu hút nhân vật lực, chiếm đóng lan rộng thêm và đưa ra cung ứng cho chiến trường chính để thực hiện âm mưu “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”. Nhiệm vụ của chúng ta là cố giành người, giành của, kìm chế địch để tạo điều kiện thuận lợi cho chiến trường chính trong lúc giành ưu thế quân sự. Chiến trường Nam Bộ hầu hết binh lính địch hiện nay là ngụy binh. Tình hình thế giới, trong nước chuyển biến có lợi cho ta, càng ngày càng làm cho ngụy binh tinh thần hoang mang, sợ sệt, nội bộ lại ngày một mâu thuẫn sâu sắc. Thu Đông sắp tới lại thêm một mối lo âu sợ sệt của ngụy địch. Từ đó, Trung ương Cục miền Nam yêu cầu: Công tác địch ngụy vận là một trong ba trung tâm công tác của chiến trường du kích, tạm bị chiếm mà Trung ương đã vạch ra… Mục đích vận động là làm ta rã hàng ngũ địch bằng đủ mọi cách chính trị, quân sự để đẩy mạnh du kích chiến tranh, phá chính sách “lấy người Việt đánh người Việt”, tranh thủ thêm bạn bớt thù, bồi dưỡng lực lượng ta. Lính ngụy là một tổ chức có võ trang của địch để đánh ta cho nên nhiệm vụ của ta là phải bằng đủ mọi cách làm tan rã lực lượng quân sự địch mới thắng được địch[5] nhằm hạn chế sự chi viện sức người, sức của trong chính quyền địch ở Nam Bộ ra chiến trường Bắc Bộ, nhất là Điện Biên Phủ.
Về phương châm của công tác binh vận, Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo công tác dân vận xác định: Dùng đủ mọi hình thức tuyên truyền vận động, từ thấp đến cao, từ hợp pháp đến bất hợp pháp kết hợp sự vận động chính trị với quân sự, việc tranh thủ chính trị làm chính và lấy dân vận làm gốc nhằm vào các sắc lính như bảo an, lính đóng đồn bót, Cao Đài, Hòa Hảo làm chủ yếu để vận động[6] binh địch vận. Đồng thời, để nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác binh địch vận trên chiến trường miền Nam, hạn chế sự tập trung lực lượng địch ra chiến trường Bắc Bộ và Điện Biên Phủ, Trung ương Cục miền Nam đã phân tích mặt hạn chế của ta: Từ trước đến giờ ta đã không có một đường lối tuyên truyền thích hợp, từng lúc từng nơi, từng sắc ngụy[7] mà còn vấp phải sai lầm là đề ra khẩu hiệu chung quá cao và đơn độc, chật hẹp “kêu gọi vác súng trở về với Tổ quốc”, mà không hiểu rằng công tác tuyên truyền vận động ngụy binh là một hình thức tuyên truyền vận động quần chúng (vì ngụy binh là quần chúng còn trong hàng ngũ địch); tiến hành từ hình thức thấp nhất như vận động gia đình ngụy binh trở về nhà không đi lính cho giặc, vận động cha mẹ vợ con ngụy binh kéo nhau ra đồn khóc lóc đòi chồng con, ngụy binh làm đơn xin giải ngũ, giả đau, đào ngũ… cho đến các hình thức khác như không ra trận, ra trận không bắn hay không tàn sát đồng bào và tiến đến hình thức cao đó là làm nội ứng quay súng bắn vào đầu địch trở về với kháng chiến[8]. Do đó, công tác binh địch vận trước năm 1953 ở miền Nam chưa phát huy hết ưu điểm nhằm hạn chế sức mạnh quân sự của thực dân Pháp ở Nam Bộ.
Bước sang các năm 1953-1954, để hạn chế sức mạnh quân sự của thực dân Pháp ở Nam Bộ, làm cho chúng khó khăn chi viện quân sự ra chiến trường Bắc Bộ và Điện Biên Phủ, Trung ương Cục miền Nam đã tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo công tác binh vận góp phần giành thắng lợi trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Theo đó, Trung ương Cục miền Nam đề ra các giải pháp đồng bộ mới đối với công tác binh địch vận trên chiến trường miền Nam với các hình thức: Từ hợp pháp đến bất hợp pháp, lợi dụng những hình thức tuyên truyền hợp pháp là tuyên truyền rộng rãi bằng miệng và vận dụng những hình thức bất hợp pháp là rải truyền đơn, tung báo chí, phát loa, kêu gọi… Vận động hình thức tổ chức hợp pháp có tính cách văn hóa xã hội như thành lập các nhóm thể dục, âm nhạc… và đi đến vận động với hình thức bất hợp pháp như gây dựng cơ sở bí mật. Công tác vận động ngụy binh là những hình thức vận động rất dồi dào, phong phú tùy theo trình độ ngụy binh, tùy theo từng sắc ngụy[9] mà áp dụng thích hợp từ hình thức tuyên truyền vận động, tổ chức cho đến việc lãnh đạo đấu tranh.
Đối với hình thức vận động chính trị kết hợp với quân sự và dùng quân sự để kết hợp với việc vận động chính trị, tức là trong khi tuyên truyền vận động phải nhằm việc nơi bắt liên lạc làm nội ứng cho ta và khi tác chiến phải biết kết hợp với việc vận động chính trị nghĩa là vừa tác chiến vừa kêu gọi, vừa kêu gọi vừa tác chiến. Trong đó, tranh thủ đấu tranh chính trị làm chính tức là đề cao và tăng cường công tác tuyên truyền vận động chính trị và việc vận động chính trị phải là chính. Nói thế không có nghĩa là tăng cường công tác tuyên truyền vận động chính trị rồi không dùng lực lượng quân sự để tác chiến. Đồng thời, Trung ương Cục miền Nam yêu cầu: Tất cả các việc vận động phải lấy dân vận làm gốc. Chúng ta phải biến công tác địch ngụy vận trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi làm cho các tầng lớp nhân dân đều tham gia bất luận ở vùng tạm chiếm, du kích hay căn cứ địa du kích, nhưng chủ yếu là vùng du kích và tạm bị chiếm. Từ trước tới nay, chúng ta khoán trắng công tác địch ngụy vận cho bộ đội, cho các cơ quan có trách nhiệm mà không biết kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể, các hội quần chúng để gây thành phong trào rộng rãi dựa trên cơ sở dân vận. Công tác địch ngụy vận không thể bó hẹp trong phạm vi các đồn bót mà có khi phải bủa lưới rộng rãi cho đến quê hương, gia đình, bà con, họ hàng ngụy binh, dùng tình cảm gia đình, dùng quyền lợi địa phương để vận động. Đối với khối Hòa Hảo, Cao Đài việc dùng cơ sở dân vận tiến lên vận động ngụy binh cũng đặc biệt hơn. Vì bộ đội Hòa Hảo, Cao Đài phát triển là do sự ủng hộ của quần chúng Hòa Hảo, Cao Đài. Nên đối với hai khối này ta lấy dân vận làm gốc còn có 02 tác dụng vừa làm cây cầu tiến lên vận động ngụy, vừa cắt rễ không cho ngụy phát triển [10] sẽ làm giảm sức mạnh quân sự của Pháp ở miền Nam, góp phần hạn chế sự tập trung lực lượng của chúng ra miền Bắc, nhất là ở Điện Biên Phủ.
Trung ương Cục miền Nam xác định công tác binh địch vận tập trung vào các sắc lính bảo an, lính đóng đồn và vận động chủ yếu khối Cao Đài, Hòa Hảo. Trên chiến trường có rất nhiều sắc lính ngụy phức tạp, chúng ta phải biết nhằm vào nhược điểm nào yếu nhất trong tất cả các nhược điểm của địch để tập trung mọi khả năng vận động thì mới có kết quả. Đối với bảo an là sắc lính trong xã, ấp. Bọn này có nhược điểm là người địa phương và có khi có cả quần chúng cứu quốc và đồng chí nữa. Nếu chúng ta biết dùng tình cảm gia đình, quyền lợi địa phương kết hợp với căm thù yêu nước, ý thức giai cấp tiến hành vận động thì dễ có kết quả. Vả lại nếu chúng ta nắm được quần chúng thì dễ che giấu được lực lượng của ta ở địa phương và nhân đó gây dựng được cơ sở địa phương. Đối với lính dõng lô cốt là bọn có tư tưởng cầu an, dễ hoang mang, dao động nhất. Ta sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi vận động dễ dàng. Đối với Cao Đài, Hòa Hảo mà nhất là Hòa Hảo với tinh thần binh lính đang hoang mang, sa sút vì tình hình trong và ngoài nước biến chuyển có lợi cho ta, vì chính sách kêu gọi đoàn kết kháng chiến của ta, vì bị mâu thuẫn bởi chính sách thân binh hóa của Pháp, bù nhìn và càng ngày binh lính càng thấy rõ dã tâm của lãnh tụ Pháp. Đó là điểm yếu nhất trong các chỗ yếu của khối ngụy[11]. Do đó, công tác binh địch vận từng bước phát huy hiệu quả, làm suy yếu lực lượng binh lính người Việt trong quân đội Pháp ở miền Nam, góp phần hạn chế sự đánh phá của quân Pháp và tay sai trên chiến trường, nhất là việc thực dân Pháp tập trung mọi lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ và Điện Biên Phủ.
Cuối tháng 9, đầu tháng 10/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị Bộ Chính trị dưới chân núi Hồng tại bản Tỉn Keo, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Hội nghị quyết định lấy hướng Tây Bắc làm hướng tiến công chính trong Đông Xuân 1953-1954, các chiến trường khác là hướng phối hợp, trong đó có Nam Bộ giữ vai trò rất quan trọng. Theo đó, đối với chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ thì nhiệm vụ là đẩy mạnh chiến tranh du kích, lợi dụng điều kiện thuận lợi mới do quân địch phải tập trung nhiều lực lượng đi các hướng khác mà tăng cường hoạt động, đánh nhỏ ăn chắc, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh ngụy vận, mở rộng căn cứ du kích và khu du kích[12]. Trên cơ sở chỉ đạo từ Trung ương, Trung ương Cục miền Nam nhận định: Càng thất bại ở chiến trường chính Bắc Bộ, Pháp càng ra sức càn quét bình định Nam Bộ để vơ vét sức người, sức của ở đây phục vụ cho chiến tranh, đồng thời, biến nơi đây làm hang ổ cuối cùng của chúng. Do đó, Trung ương Cục miền Nam đề ra ba nhiệm vụ của Nam Bộ trong Đông Xuân 1953-1954[13]: Giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích. Củng cố và mở rộng căn cứ. Đẩy mạnh công tác ngụy vận[14]. Để triển khai chủ trương này, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị ngụy địch vận toàn Nam Bộ. Hội nghị đã chỉ ra những khuyết, nhược điểm trong công tác ngụy địch vận từ đầu kháng chiến đến nay, đề ra phương châm, kế hoạch cụ thể nhằm đẩy mạnh công tác địch ngụy vận trong thời gian sắp tới, nhấn mạnh phương châm “tất cả phải lấy dân làm gốc”, quyết định mở chiến dịch ngụy địch vận trên toàn chiến trường Nam Bộ từ tháng 10/1953, xem đó là công tác trung tâm ở vùng du kích và vùng tạm chiếm[15] đã góp phần rất quan trọng hạn chế sự tập trung lực lượng quân sự trong quân đội Pháp càn quét, bố ráp vào vùng căn cứ, chiến khu, nhất là ngăn chặn việc chi viện lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ với cao điểm ở Điện Biên Phủ.
Song song với công tác binh địch vận, Trung ương Cục miền Nam ban hành Chỉ thị số 19/CT-TWC, tháng 4/1954 về cương quyết đẩy mạnh công tác chống giặc bắt lính ở vùng du kích và tạm bị chiếm nhằm hạn chế sự chi viện lực lượng trong quân đội Pháp từ miền Nam ra chiến trường Bắc Bộ, nhất là Điện Biên Phủ năm 1954. Theo đó, Trung ương Cục miền Nam xác định nhiệm vụ phải tích cực phá tề, phá các sắc lính ngụy, kể cả bảo an, lính trù bị… để chống bắt lính, chống xây dựng thêm ngụy quân… Ở những đô thị và thôn quê tạm bị chiếm nào chưa đủ điều kiện phá thì có thể lợi dụng tề và lính ngụy tham gia, ủng hộ cuộc đấu tranh chống bắt lính, chống bắt bảo an… bổ sung, xây dựng thêm quân ngụy… Dùng tất cả các hình thức đấu tranh thích hợp từ thấp đến cao, từ công khai đến bí mật, từ tiêu cực đến tích cực, tổ chức trốn tránh, kêu xin van khóc, giằng co tại chỗ bị bắt, biểu tình tới trại tập trung, đánh giải vây, đào hầm bí mật, canh gác, vào du kích, tham gia phá tề, chống càn quét, chống giặc giữ làng…[16].
Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo công tác binh địch vận đã góp phần quan trọng đối với các lực lượng cách mạng ở miền Nam giành nhiều thắng lợi về quan sự. Mặc dù lực lượng của ta so với địch không những ít hơn về số lượng mà trang bị vũ khí còn kém hơn, vì vậy nhiệm vụ của Nam Bộ trong Đông Xuân 1953-1954 chủ yếu là hoạt động đều khắp ở các vùng sau lưng địch, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa theo kiểu du kích nhằm tiêu hao sinh lực, cầm chân địch, gây tổn thất hậu phương của chúng, không để địch chi viện nhân lực, vật lực của chúng từ miền Nam ra chiến trường Bắc Bộ và Điện Biên Phủ. Trong Thu Đông 1953, trên chiến trường Nam Bộ, quân dân cách mạng loại khỏi vòng chiến đấu 11.203 tên địch, trong đó, có 7.891 tên bị giết, 2.889 tên bị thương, 423 tên bị bắt; thu 1.619 súng, phá hủy 151 xe quân sự, bắn rơi 7 máy bay, diệt 101 đồn bót, bức rút 61 đồn tua. Từ ngày 1-24/01/1954, quân và dân Nam Bộ đã tiêu diệt, bức rút 259 đồn bót, tháp canh; nhiều nhất là ở Mỹ Tho. Quân dân ta đẩy mạnh giao thông chiến, uy hiếp các đường số 13, 14 và đường 12; diệt và phá 3 thiết giáp, 1 xe tăng, 12 xe vận tải, 2 xe “gíp”, 1 đầu máy xe lửa, 15 toa xe lửa, diệt 1.900 tên, trong đó có 1 quan ba, 1 quan hai. Ta thu 4 súng cối, 1 đại liên, 18 trung liên, 61 tiểu liên, 656 súng trường[17].
Với sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời, thường xuyên của Trung ương Cục miền Nam, công tác binh địch vận nói riêng và các công tác khác nói chung của cách mạng miền Nam đã góp phần quan trọng ngăn chặn sự tập trung lực lượng trong quân đội Pháp, sự chi viện của chúng từ chiến trường Nam Bộ ra chiến trường Bắc Bộ, với đỉnh cao là Điện Biên Phủ. Trong thư chúc Xuân Giáp Ngọ năm 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: Trên mặt trận Nam Bộ, chiến tranh du kích đã tiến mạnh, hàng loạt đồn bót của địch bị ta tiêu diệt hoặc bức hàng, nhiều vùng du kích và căn cứ du kích được mở rộng[18]. Mặc dù lực lượng của ta ở Nam Bộ ít hơn địch như vào thời điểm chiến dịch Điện Biên Phủ đang tiếp diễn, ta đã nâng cao nhịp độ tấn công cả về quân sự, chính trị và binh vận, như ở Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre… và nhiều nơi khác. Nhân dân đã nổi lên biểu tình, bao vây đồn bót, tấn công bằng binh vận làm ta rã hàng ngàn lính ngụy, trong đó có 06 đại đội tự tan rã, hàng chục đồn bót phải rút chạy. Cũng trong thời điểm này, phong trào đấu tranh chính trị trong các đô thị lớn ở Nam Bộ cũng phát triển rất mạnh mẽ với các khẩu hiệu đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình, chống bắt lính, chống đàn áp[19] góp phần quan trọng cùng quân dân mặt trận Điện Biên Phủ giành thắng lợi vang dội ngày 07/5/1954, tạo nên khúc tráng ca: Chín năm làm một Điện Biên/nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng...
Năm 2024, kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954-2024), là dịp để thế hệ trẻ người Việt Nam trong và ngoài nước hôm nay càng thêm trân quý hơn nữa thành quả của độc lập tự do. Đồng thời, giúp thế hệ trẻ nghiên cứu thêm nữa những yếu tố, vấn đề có sự tác động, ảnh hưởng ít nhiều đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược nước ta sau ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 02/9/1945. Một trong những vấn đề tiếp tục được nghiên cứu đó là Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo công tác binh vận góp phần thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ Năm 1954.
Việc nghiên cứu công tác binh địch vận của Trung ương Cục miền Nam những năm 1953-1954 để thấy được chiến lược, sách lược lãnh đạo cách mạng của Đảng ta rất linh hoạt, bám sát thực tiễn theo chỉ dẫn kế sách của Lênin: “Chỉ có thể thắng một kẻ thù mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn với một điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng hết sức tỷ mỷ…, hết sức khôn khéo, “bất cứ một rạn nứt bé nhỏ giữa các kẻ thù… cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù bé nhỏ nhất để có được một bạn đồng minh về số lượng, dù đó là bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, ít chắc chắn và ít tin cậy”[20]; đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng “thêm bạn bớt thù” vừa là tư tưởng trong dạng thức các luận điểm lý luận, vừa là phương pháp với tư cách “là hợp điểm giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và hành động”[21] cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, Đảng, Nhà nước ta từng bước hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do từ chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ năm 1954 thành sự phát triển bền vững, toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng - an ninh, “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
[1] Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Sài Gòn, tr.142
[2] Lê Văn Cử (2015), Công tác địch vận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Luận án Tiến sĩ lịch sử, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, tr.8
[3] Huỳnh Hải Âu (2021), Bài học kinh nghiệm về tiến hành công tác binh vận ở Bạc Liêu (1969-1973), Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn, số 74 (02/2021), tr. 94
[4], [5], [6] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn phòng (2018), Văn kiện Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1946-1975, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.191; tr.212; tr.213
[7] Người Việt đi lính cho quân đội thực dân Pháp.
[8] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn phòng (2018), Văn kiện Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1946-1975, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.214
[9] Người Việt đi lính trong quân đội Pháp với các loại binh chủng, cấp bậc khác nhau.
[10], [11] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn phòng (2018), Văn kiện Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1946-1975, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.216; tr.217.
[12] Võ Nguyên Giáp (1994), Điện Biên Phủ, Nxb Chính trị quốc gia, tr.90-91
[13] Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam Bộ kháng chiến (2010), Lịch sử Nam Bộ kháng chiến (1945-1954) tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.502
[14] Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tập 3, tr.503
[15] Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, tập 1 (1945-1954), Nxb Chính trị quốc gia, tr.502
[16] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn phòng (2018), Văn kiện Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1946-1975, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.752-753
[17] Phan Xuân Biên (2014), Nam bộ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Điện Biên Phủ, https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nam-bo-trong-chien-cuoc-dong-xuan-1953-1954-va-dien-bien-phu-1398856551 (Trung cập ngày 05/12/2023)
[18] Lê Trung Kiên (2014), Chiến thắng Điện Biên Phủ biểu tượng của sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Nxb Thời đại, tr.70
[19] Phan Xuân Biên (2014), Nam bộ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Điện Biên Phủ, https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nam-bo-trong-chien-cuoc-dong-xuan-1953-1954-va-dien-bien-phu-1398856551 (Trung cập ngày 05/12/2023)
[20] Lênin (1980), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, tr,68-69
[21] Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - hành chính, Hà Nội, 2011, tr.82.
Lê Quang Cần