Ngày 05/12/2023, tại hội trường Báo Thanh Niên (268 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh), Báo Thanh Niên đã tổ chức Hội thảo "Thu hút đầu tư xanh: Lọc ngành hay giảm phát thải?". Tham dự và đồng chỉ trì hội thảo có ông Nguyễn Ngọc Toàn – Tổng Biên tập Báo Thanh niên, ông Đỗ Văn Sử - Phó Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch - Đầu tư) và ông Vũ Tiến Lộc - Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Cùng tham dự hội thảo có chuyên gia Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Ông Trần Đình Thiên - Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và ông Trần Du Lịch - Chủ tịch Hội đồng tư vấn thực hiện Nghị quyết 98; ông Vũ Xuân Hưng - Trưởng phòng Pháp chế VCCI và ông Kasahara Masayuki - Trưởng đại diện Văn phòng JICA tại Thành phố Hồ Chí Minh; đại diện lãnh đạo sở, ban, ngành, Ban quản lý Khu công nghiệp, khu chế xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh như: Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước; đông đảo các nhà khoa học, chuyên gia, cơ quan báo đài, khu công nghiệp ở các địa phương.
Về phía đoàn Đồng Nai, tham dự Hội thảo có bà Nguyễn Thị Hồng Trang - TUV, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, bà Đoàn Thị Ngọc Vân - Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư và bà Dương Thị Xuân Nương - Phó Trưởng ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai.
Nhà báo Nguyễn Ngọc Toàn - Tổng biên tập Báo Thanh Niên phát biểu đề dẫn tại hội thảo
Phát biểu đề dẫn Hội thảo Nhà báo Nguyễn Ngọc Toàn - Tổng biên tập Báo Thanh Niên cho biết: Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn... là vấn đề được quan tâm nhiều nhất hiện nay. Rất nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm liên quan đến chủ đề này. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng vừa tham dự lễ khai mạc Hội nghị thượng đỉnh hành động khí hậu thế giới tại Dubai cách đây 03 ngày. Đây là một trong những hội nghị quốc tế lớn nhất và quan trọng nhất trong năm 2023. Có hơn 70.000 đại biểu, bao gồm cả nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ và các nhà lãnh đạo thế giới, từ 197 quốc gia, EU và hàng ngàn tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp, nhóm thanh niên cùng các bên liên quan khác. Những con số trên cho thấy, tầm quan trọng và sự quan tâm của toàn cầu trong đó có Việt Nam đến mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính; tiếp tục thúc đẩy việc giảm mạnh phát thải khí nhà kính và đưa phát thải ròng về "0" vào giữa thế kỷ, thông qua xây dựng các tiêu chuẩn, biện pháp giảm phát thải mang tính khả thi. Xuất phát từ thực tiễn trong quá trình áp dụng tăng trưởng xanh ở nhiều địa phương, ở nhiều khu công nghiệp trên cả nước và có thể ở nhiều cơ quan có thẩm quyền trong cấp phép đầu tư. Đó là lọc thẳng các ngành có thể gây ô nhiễm hay yêu cầu phải giảm phát thải có lộ trình? Dù đã có những suy nghĩ riêng của mình dựa trên các nghiên cứu về chủ trương, tiêu chí của Việt Nam; các quốc gia tương đồng với Việt Nam cũng như thế giới, tuy vậy, chúng tôi vẫn muốn được nghe phân tích kỹ lưỡng nội hàm của "tăng trưởng xanh" để kiên định hơn với quan điểm của mình trong công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình áp dụng chuyển đổi sang xu thế phát triển bền vững, để đạt được mục tiêu giảm phát thải ròng về 0% vào năm 2050 như cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại COP28.
Từ những phân tích trên, nhà báo Nguyễn Ngọc Toàn nhấn mạnh việc chọn lát cắt "lọc ngành hay giảm phát thải" do có nhiều doanh nghiệp trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nước ngoài, thời gian qua đã gửi phản ánh nhiều thắc mắc. Họ gặp khó khăn khi làm thủ tục đầu tư vào Việt Nam. Lý do các doanh nghiệp này đưa ra: Lãnh đạo một số địa phương có tâm lý nghe thấy ngành nào "có vẻ ô nhiễm" là không mặn mà, thậm chí gạt luôn. Nhà báo Nguyễn Ngọc Toàn băn khoăn: "Nếu việc này xảy ra ở nhiều địa phương, liệu có hay không việc chúng ta phải lên một danh sách các ngành nghề không khuyến khích, thậm chí không cấp phép đầu tư vào Việt Nam để rõ ràng, minh bạch ngay từ đầu trong thu hút đầu tư nói chung". Trong khi đó, nhiều nghiên cứu cho thấy, hầu hết các ngành chủ lực của chúng ta như dệt may, nông nghiệp, vận chuyển, sản xuất và xây dựng... đều là những ngành công nghiệp gây ô nhiễm hàng đầu. Ngay cả các ngành mà chúng ta đang nỗ lực thu hút đầu tư và muốn trở thành cứ địa sản xuất của thế giới như công nghệ, công nghiệp bán dẫn... thì đầu vào của nó là xi mạ cũng gây ô nhiễm trầm trọng. Nhà báo Nguyễn Ngọc Toàn đặt vấn đề: "Vậy thì chúng ta ứng xử với các dự án trong các ngành này thế nào? Liệu chúng ta có tiếp tục thu hút đầu tư vào công nghiệp bán dẫn nữa hay không?". Từ đó, ông đặt câu hỏi, nếu chúng ta vẫn phải mặc quần áo hằng ngày, thay quần áo thường xuyên... thì việc từ chối dệt may, nhuộm vì ô nhiễm liệu có đúng không? Nếu con cái chúng ta vẫn dùng sách vở, ngành bao bì vẫn phải phục vụ đóng gói thực phẩm, lương thực, vật liệu... thì công nghiệp giấy có đáng bị tẩy chay? Ở chiều ngược lại, ngay cả các ngành chúng ta nghĩ là sạch nhất như trồng trọt, du lịch... nếu không kiểm soát các vấn đề liên quan đến nó như vận tải, các loại thuốc hóa học, phân bón... cũng có thể gây ô nhiễm nặng nề. Vậy thì "hành trình giảm phát thải ròng về 0" phải được hiểu như thế nào cho đúng, nếu lọc ngành thì ngành nào bị lọc? Hay là phải ràng buộc các điều kiện để doanh nghiệp áp dụng công nghệ, máy móc, các mô hình sản xuất kinh tế tuần hoàn để giảm phát thải? Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về thu hút đầu tư giữa các nước trong khu vực hiện nay, nếu không thống nhất quan điểm, không có một bộ tiêu chí cụ thể, không minh bạch trong thông tin thì rất có thể, sự cẩn trọng cũng như áp lực tăng trưởng xanh lại khiến chúng ta mất đi các dự án lớn vào các ngành quan trọng để phát triển đất nước. Vì thế, tổ chức hội thảo này, Báo Thanh Niên rất mong được nghe quan điểm của các quý vị là lãnh đạo các cơ quan, các địa phương, các chuyên gia, các doanh nghiệp về vấn đề này để góp thêm một tiếng nói cho hành trình tăng trưởng xanh mà Đảng và Nhà nước đang nỗ lực thực hiện.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, ông Đỗ Văn Sử - Phó cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH&ĐT), người vừa tham gia đoàn công tác của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị thượng đỉnh hành động khí hậu thế giới (COP28) cho biết: Tăng trưởng xanh được triển khai ở Việt Nam từ năm 2012. Đến nay, thành tựu đạt được là xây dựng thành công thể chế, nâng cao nhận thức, triển khai thực hiện và thúc đẩy nguồn lực nhà nước và tư nhân. Theo đó, Việt Nam đặt ra 04 mục tiêu quan trọng trong tăng trưởng xanh. Cụ thể là giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; xanh hóa các ngành kinh tế; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, nâng cao sức chống chịu... Bộ KH&ĐT nghiên cứu bước đầu cùng Tập đoàn tư vấn Boston (BCG), đến năm 2050, 2 nguồn năng lượng tái tạo là điện gió và điện mặt trời có tiềm năng đóng góp khoảng 70-80 tỉ USD vào GDP và tạo khoảng 90.000-105.000 việc làm trực tiếp. Hệ sinh thái hydro có tiềm năng đóng góp 40-45 tỉ USD vào GDP, tạo ra 40.000-50.000 việc làm. Nền kinh tế xanh Việt Nam ước tính đạt quy mô 6,7 tỉ USD năm 2020. Mục tiêu nâng lên 300 tỉ USD vào năm 2050. Còn Ngân hàng Thế giới ước tính Việt Nam tới 368 tỉ USD trong giai đoạn 2022-2040 (hoặc 6,8% GDP/năm) để xây dựng khả năng chống chịu và khử carbon, hướng giảm phát thải ròng bằng 0. Theo tính toán của Bộ KH-ĐT và BCG, cần huy động thêm 144 tỉ USD trong giai đoạn 2021 - 2050 (thời giá tính năm 2020, chiết khấu 10% hoặc 827 tỉ USD không chiết khấu), tương ứng 2,2% của GDP, nhằm hiện thực hóa cam kết đưa phát thải ròng về vào năm 2050. Phương án huy động vốn đầu vào tăng trưởng xanh mà đại diện Bộ KH-ĐT đưa ra đến từ 3 nguồn vốn chính, đó là:
Thứ nhất, vốn hỗ trợ từ nước ngoài, trong đó từ JETP cam kết hỗ trợ là 15,5 tỉ USD. Ngoài ra, Bộ KH-ĐT, cụ thể là Vụ Khoa học, giáo dục và tài nguyên môi trường đang đàm phán với các quỹ. Trong đó có Quỹ khí hậu xanh, có 26 ý tưởng dự án với tổng vốn 2,3 tỉ USD, riêng vốn không hoàn lại tiếp cận quỹ này là 378 triệu USD, phần còn lại dự kiến huy động từ các tổ chức quốc tế khác; các thiết chế tài chính khác...
Thứ hai, đầu tư nước ngoài, chiến lược đặt ra đến năm 2030 vốn đầu tư nước ngoài thực hiện một năm khoảng 20-30 tỉ USD cho giai đoạn 2026-2030; từ 30-40 tỉ USD mỗi năm trong giai đoạn 2031-2040. Để tăng thu hút nguồn vốn này, chúng ta đang chuyển đổi từ thu hút đầu tư theo hướng tương đối rộng sang chiều sâu và có chọn lọc, đặt mục tiêu tăng trưởng xanh theo hướng chất lượng cao, đầu tư xanh và có chọn lọc.
Thứ ba, vốn từ nội lực, bao gồm cả vốn đầu tư công và tư, bao gồm nguồn vốn đầu tư công trung hạn mang tính vốn mồi, dẫn dắt đầu tư tư nhân. Đến nay, top 10 các nước thu hút đầu tư xanh, có tên Việt Nam trên bản đồ, chiếm 5% trong các nước đang phát triển. Đóng góp lớn nhất vốn FDI xanh tại Việt Nam là trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, tăng gấp 5,7 lần trong vòng 10 năm qua.
Dẫn thông tin từ Diễn đàn thu hút nguồn lực cho chuyển đổi xanh được tổ chức do Chính phủ chủ trì tại UAE tuần trước, ông Đỗ Văn Sử cho hay: Khi đặt câu hỏi cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực xanh, họ gặp những rào cản gì nhiều nhất. Các nhà đầu tư đưa ra 6 rào cản khi họ đầu tư vào 1 quốc gia, khu vực liên quan đầu tư xanh gồm: 1) Chính sách pháp lý, họ sợ nhất là tính không nhất quán, không rõ ràng liên quan đầu tư xanh. 2) Thiếu chính sách hỗ trợ, hoặc không rõ dẫn tới dự án xanh không đạt hiệu quả kinh tế; yếu kém công nghệ hạ tầng, chẳng hạn làm năng lượng tái tạo nhưng truyền tải không có như việc phát triển "nóng" điện tái tạo tại khu vực miền Trung trong thời gian qua, làm nhà đầu tư "chết" trên dự án. 3) Thiếu công nghệ tiên tiến, không đủ hỗ trợ để họ phát triển. 4) Chi phí đầu tư ban đầu cao, khả năng tiếp cận tài chính, cơ chế tài trợ kém hiệu quả; rủi ro của thị trường và sự "đỏng đảnh" của người tiêu dùng. 5) Nguồn lao động không có tay nghề, thiếu chuyên môn quản lý dự án xanh. 6) Bất ổn, rủi ro về chính trị kinh tế xã hội.
Tại Việt Nam, các rào cản thu hút FDI xanh theo khảo sát là hành trình đầu tư, chuỗi cung ứng, cơ sở hạ tầng, vốn tài chính, lao động, thuế và ưu đãi, nghiên cứu và phát triển... Từ đó, Bộ KH-ĐT đã đề xuất 4 giải pháp, cụ thể: Xây dựng chính sách bao gồm hoàn thiện khung pháp lý các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, tín dụng xanh, bảo hiểm xanh. Vấn đề này Việt Nam chưa có, cần sớm ban hành để nhà đầu áp dụng; phát triển thị trường trao đổi quyền phát thải; ban hành cơ chế ưu đãi đầu tư xanh; hướng dẫn đầu tư xanh trong PPP; có giải pháp tập trung nguồn lực cho tín dụng xanh; nâng cấp thể chế hóa bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững... Ông cũng cho rằng: Tăng trưởng xanh vẫn còn nhiều quan điểm trái chiều. Nên ứng xử như thế nào, phạm vi ở đâu, chiến lược phát triển như thế nào cho phù hợp là câu hỏi mà nhiều quốc gia đang đặt ra? Trong khi chúng ta vẫn phải ăn, mặc, tiêu dùng hằng ngày, vậy xanh hóa bằng cách nào để giảm khí thải nhưng không ảnh hưởng đến phát triển kinh tế? không thể loại trừ hết các ngành có dấu hiệu ô nhiễm mà chọn nâng cao công nghệ để giảm ô nhiễm và nâng hiệu quả khi chế biến, tinh lọc. Cần có quy trình của doanh nghiệp và nhà cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp. Siết ngay từ đầu vào từ nhà nước, nhà đầu tư, nhà cung cấp hạ tầng khu công nghiệp, như thế 3 "nhà" này cùng làm sẽ có quy trình rất chặt chẽ.
Theo chủ đầu tư khu công nghiệp chuyên sâu Phú Mỹ 3, bà Nguyễn Thị Thảo Nhi, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty CP Thanh Bình Phú Mỹ, nói thẳng: Khi đã xác định tăng trưởng xanh, phát triển bền vững thì tất cả các tập đoàn, công ty hàng đầu thế giới đều hướng tới đáp ứng 17 tiêu chí mà Liên hợp quốc đã đưa ra. Khi đó, chắc chắn doanh nghiệp sẽ đầu tư công nghệ máy móc hiện đại để kiểm soát khí thải. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý phải định nghĩa lại phát triển xanh. Không thể chỉ nghe thấy doanh nghiệp sản xuất vật liệu cơ bản, hóa chất cơ bản là "auto" xếp vào ngành ô nhiễm. Bởi, có rất nhiều tập đoàn lớn trên thế giới sản xuất pin cho ô tô điện phải dùng nguyên liệu đầu vào từ quặng, nhưng họ đã bỏ ra số tiền rất lớn để đầu tư công nghệ cao với quy trình chặt chẽ. Bà nhấn mạnh: Câu chuyện kiểm soát phát triển xanh phải là sự phối hợp của 3 đơn vị: Nhà quản lý, các nhà đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp và nhà đầu tư sản xuất trong khu công nghiệp. Từ lợi thế địa phương, cơ quan quản lý xác định phát triển ngành nghề gì, kêu gọi ngành nghề gì từ đó đặt ra mục tiêu giảm phát thải. Nhà đầu tư phát triển khu công nghiệp là cánh tay nối dài của nhà nước, đưa những quy chế để yêu cầu các nhà đầu tư vào sản xuất cùng thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh. Ví dụ, dù được thành lập từ cách đây 10 năm, nhưng khu công nghiệp chuyên sâu Phú Mỹ 3 đã đầu tư rất lớn, đáp ứng hết tất cả tiêu chí khu đô thị sinh thái, khu công nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn...
Bà Nguyễn Thị Thảo Nhi - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty CP Thanh Bình Phú Mỹ phát biểu tại Hội thảo.
Theo ông Hứa Quốc Hưng - Trưởng ban Quản lý các Khu chế xuất và công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh chi sẻ: Hiện nay quy hoạch đất Khu công nghiệp - Khu chế xuất trên địa bàn Thành phố còn ít, khoảng 6.000 ha, tỷ lệ lấp đầy là 82%, phần còn lại vướng về thủ tục pháp lý. Cũng vì quỹ đất còn lại khá hạn hẹp, nên chúng tôi muốn các dự án vào TP là những dự án có hàm lượng giá trị gia tăng cao, tỷ suất đầu tư cao. Vừa qua, lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh thống nhất ban hành đề án chuyển đổi các Khu công nghiệp - Khu chế xuất từ đây đến 2030 và tầm nhìn đến 2041. Định hướng của thành phố giữ lại hết các Khu công nghiệp - Khu chế xuất trên địa bàn tiếp tục đầu tư, không chuyển bất kỳ mét vuông đất công nghiệp nào thành đất khác. Thu hút công nghiệp ở tầm công nghệ cao, lĩnh vực công nghệ cao để tăng hàm lượng đầu tư. Thành phố Hồ Chí Minh không lọc ngành mà là lọc công nghệ, giảm phát thải, tăng hiệu quả đầu tư thì mới phù hợp với xu thế đầu tư.
Bà Dương Thị Xuân Nương - Phó trưởng Ban Quản lý các Khu công nghiệptỉnh Đồng Nai chia sẻ: Tỉnh Đồng Nai có 33 khu công nghiệp, trong đó 31 khu công nghiệp đã hoạt động đạt tỷ lệ lấp đầy là 87%, đang quy hoạch khu công nghiệp theo ngành nghề và điều kiện tự nhiên cho thật sự phù hợp và bền vững, Đồng Nai không lọc ngành mà quan tâm đến việc chuyển đổi sang năng lượng xanh, công nghệ sản xuất cao, sử dụng nguyên liệu tái tạo và vẫn có chỗ cho những ngành nghề nhạy cảm như dệt may, xi mạ…, nhưng cũng đi kèm theo những điều kiện với các dự án là phải phù hợp định hướng của tỉnh, phải có công nghệ tiên tiến, hàm lượng chất xám cao.
Theo ông Shimada Takahiro - Tổng giám đốc Công ty Kraft of Asia Paperboard & Packaging cho biết: Tại nhà máy KOA sản xuất giấy làm thùng carton, khi tái chế để biến giấy cũ thành thùng carton phải sử dụng nhiều nước, năng lượng và nhiên liệu. Đây là một trong những ngành được đánh giá dễ gây ô nhiễm môi trường, phát thải nhiều khí CO2. Chính vì vậy, công ty phải đưa ra nhiều giải pháp để giảm ô nhiễm, giảm phát thải. Đó là hạn chế hết mức tiêu thụ năng lượng, sử dụng công nghệ, dây chuyền hiện đại từ Nhật Bản. Nhà máy KOA cũng sử dụng khí gas làm nhiên liệu thay vì than. Việc này giúp giảm phát thải khí nhà kính rất lớn. Bên cạnh đó, lượng rác thải ra hằng năm của nhà máy khoảng 38.000 tấn, được tận dụng làm nguyên liệu để tận thu nhiệt. Nhiệt phát ra dùng để làm năng lượng cho quá trình sản xuất qua đó giảm phát thải khí nhà kính. Với giải pháp này hằng năm giúp giảm 24.500 tấn CO2 (tương đương) phát thải ra môi trường. Hiện lượng phát thải của nhà máy chỉ còn khoảng 100 tấn CO2. Từ năm 2024 nhà máy sẽ sử dụng tấm pin năng lượng mặt trời để thay thế nguồn điện năng hiện tại. Đến năm 2030 không dùng khí gas mà dùng khí hydro.
Theo ông Lê Anh - Giám đốc Phát triển bền vững Công ty Nhựa tái chế Duy Tân (Duy Tan Recycling) cho biết: Tái chế là ngành được khuyến khích và từ cộng đồng tới chủ trương của nhà nước rất hoan nghênh, rất được khuyến khích. Tuy nhiên khi thực tế xuống các địa phương thì có tình trạng họ "không chào đón, thậm chí không cho vào và bảo là chưa có chủ trương, chưa có chính sách". Trong khi bản thân công ty đã được Bộ KH-CN cấp chứng nhận doanh nghiệp tái chế công nghệ cao. Nhà máy đảm bảo tiêu chí 3 không là không chất thải, không rác thải và không khí thải. Bên cạnh đó, việc tiếp cận khách hàng, thị trường cũng gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, ông hy vọng có sự đồng hành, hỗ trợ tốt hơn từ phía các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương và đặc biệt là sự truyền thông của các cơ quan báo chí.
Ông Kasahara Masayuki - Trưởng đại diện Văn phòng Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại thành phố Hồ Chí Minh cho hay: Đơn vị này đang đang hỗ trợ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thực hiện dự án khu công nghiệp chuyên sâu Phú Mỹ 3. Để chuyển đổi thành công sang tăng trưởng xanh thì vấn đề quan trọng là phải gắn liền với lợi ích kinh tế. Phải đảm bảo lợi ích kinh tế trên nguyên tắc sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên, giảm tác động đến môi trường. Việc thực hiện cần phải dựa trên tình trạng thực tế hiện hữu và cải thiện nó theo hướng thân thiện với môi trường. Tại Nhật Bản, từ năm 2021, chính phủ đã đưa ra chương trình và kế hoạch hành động, cùng với đó cơ chế khuyến khích người dân, cộng đồng doanh nghiệp tham gia. Nhà nước cần đưa ra ưu đãi về thuế và tài chính để tăng khả năng nghiên cứu và thương mại hóa. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp đề ra các mục tiêu tăng trưởng xanh của riêng mình, công bố rộng rãi thông tin đó một cách minh bạch và chia sẻ dữ liệu đó với cộng đồng.
Theo ông Lê Viết Phúc - Phó trưởng Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có 15 khu công nghiệp, thu hút được 571 dự án, trong đó 284 dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Đứng trước xu thế phát triển bền vững, ngay từ đầu Ban thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu đã có ban hành chỉ thị về việc thu hút đầu tư, trong đó đã hạn chế ngay từ đầu những ngành gây ô nhiễm như chế biến tinh bột sắn, nhuộm, thuộc da, cao su, sản xuất bột giấy… Hiện nay, việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu có những thuận lợi như nguồn khí gas tự nhiên và các hệ thống đường ống khí cung cấp đến từng khu công nghiệp, có hệ thống phát triển hệ thống điện mặt trời hoàn chỉnh… Từ những định hướng và thuận lợi đó, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã đẩy mạnh thu hút đầu tư của các doanh nghiệp theo hướng công nghệ cao, ứng dụng thông minh trong quản lý vận hành, tiến tới mục tiêu phát triển "xanh", sinh thái. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn trong việc thu hút dự án "xanh" là các nhà đầu tư khi làm việc với chủ đầu tư hạ tầng rất quan tâm đến vị trí nhà máy thuận lợi, muốn dự án đầu tư phải gần khu vực cảng, gần vị trí giao thông mặc dù đã được phân khu chức năng và quy hoạch cụ thể. Ông nhấn mạnh: "Đây có thể nói là một khó khăn trong việc phát triển "xanh". Nếu đáp ứng theo yêu cầu của các chủ đầu tư thì chúng ta không thể giữ vững định hướng phân vùng, phá vỡ quy hoạch trong quá trình thu hút đầu tư, còn không đáp ứng được đòi hỏi họ lại đi tìm chỗ khác. Đây là vấn đề khiến các chủ đầu tư rất khó xử",
Theo chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên - Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: Nước ta đang chuyển dịch mạnh mẽ, thay đổi cấu trúc phát triển, thay đổi cơ cấu ngành từ phát thải cao chuyển sang phát thải thấp, từ công nghệ cũ chuyển sang công nghệ cao, thậm chí không có phát thải. Đây là cơ hội có một không hai để Việt Nam bắt nhịp ngay với những công nghệ hàng đầu toàn cầu. Ông lưu ý: Lọc ngành đầu tư phải hiểu theo nghĩa rộng, không phải bỏ ngay lập tức mà phải có lộ trình, tính toán thu hẹp như thế nào. Chính sách cấu trúc ngành phải tạo ra được hệ thống, có lộ trình để giảm dần những cú sốc cho doanh nghiệp, nền kinh tế, cũng như đảm bảo việc làm của người lao động. Về mặt thể chế, tiêu chuẩn, tiêu chí là quan trọng hàng đầu. Phải có hệ thống quy chuẩn, tiêu chí thì tăng trưởng xanh mới vận hành được. Đây là thời đại "đi trước ăn to", chúng ta phải khuyến khích làm sao để người ta chấp nhận một chút rủi ro mà sẵn sàng hành động. Rủi ro về mặt hành chính tác động vào thị trường rất cao. Nếu kéo dài như vậy, nền kinh tế thị trường rất khó phát triển. Chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn mà là con đường phải đi. Đã xác định như vậy thì tư duy về chính sách phải theo kịp, không thể băn khoăn mãi. Con đường đã chọn xong mà chính sách cứ băn khoăn thì không thể thành công.
Đồng quan điểm, theo chuyên gia kinh tế Trần Du Lịch - Chủ tịch Hội đồng tư vấn thực hiện Nghị quyết 98 của Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Chúng ta chỉ có một con đường là kinh tế xanh, nhưng vấn đề trọng tâm hiện nay là giảm phát thải. Hội thảo đặt vấn đề lọc ngành hay giảm phát thải rất thực tế bởi do thiếu cơ chế chính sách cho mục tiêu hướng đến kinh tế xanh nên thấy ngành nào cũng loại ra hết là không được. Ông nhấn mạnh: muốn doanh nghiệp làm gì thì nhà nước phải ban hành chính sách, hệ thống pháp luật. Doanh nghiệp thấy chính sách đó có lợi thì họ làm, còn nếu chính sách rủi ro, không có lợi thì không ai làm. Việt Nam đi rất sớm về chủ trương kinh tế xanh, rất nhiều chương trình hành động nhưng lại thiếu chính sách. Tất cả những đề án về kinh tế xanh phải được luật hóa để tạo khuôn khổ, định hướng. Trên tinh thần đó, Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ về kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn nên đang triển khai các vấn đề lớn như tập trung kinh tế xanh gắn với phát triển đô thị xanh; giảm phát thải trong lĩnh vực giao thông... Cái này phải có lộ trình chứ không thể làm nhanh được.
Ông Vũ Tiến Lộc - Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chia sẻ: Tăng trưởng xanh không phải là sự lựa chọn mà là vấn đề sống còn. Nhưng quá trình xanh hóa không thể ngay tắp lự, ngủ một đêm dậy hôm sau là xanh ngay. Quan trọng nhất là sự lựa chọn lộ trình thực hiện phù hợp. Nếu lộ trình sai thì mục tiêu tốt đẹp cũng không đạt được. Lộ trình phát triển xanh phải nằm trong chiến lược phát triển bền vững, cân đối hài hòa với việc sử dụng tài nguyên và giảm phát thải, đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế. Chúng ta phải tránh được bẫy lọc ngành, thay vào đó là chú trọng công nghệ vì hệ thống kinh tế là một chuỗi giá trị mà chúng ta đang khuyến khích phát triển hệ sinh thái, công nghiệp hỗ trợ. Đồng thời phải tránh cái bẫy xanh hóa ngay lập tức. Có lộ trình phù hợp để phát triển kinh tế xanh là bài toán của Việt Nam. Hiện vẫn có một số tỉnh thành lại không cho phép doanh nghiệp mở rộng dự án sản xuất dù họ đảm bảo các tiêu chuẩn như các nước phát triển. Hay thậm chí một số chỉ tiêu của bộ ngành đưa ra còn cao hơn cả các nước phát triển. Nhưng chúng ta vẫn phải đảm bảo năng lực cạnh tranh, chặt quá thì nhà đầu tư chạy sang nước khác", ông Lộc nhấn mạnh và đề nghị Việt Nam cần xây dựng chiến lược quốc gia phù hợp cho từng ngành, từng lĩnh vực và có sự phối hợp liên ngành.
Lê Văn Sơn