220 năm trước, quốc hiệu "Việt Nam" chính thức ra đời, tại Kinh đô Huế, nhà Nguyễn đặt tên nước “Việt Nam” ngày Đinh Sửu 17/02, năm Giáp Tý 1804 (tức 28/3/1804); sau đó, tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” ngày 02/9/1945 và đến Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội (khóa VI) ngày 02/7/1976 đổi quốc hiệu thành nước “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, nhưng trong dòng chảy lịch sử dựng nước và giữ nước dân tộc ta, quốc hiệu nước ta và tên gọi “Việt Nam” đã xuất hiện từ lâu đời.
Sáng ngày 23/4/2024, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam do PGS.TS Trần Đức Cường (ngồi chính giữa) chủ trì Hội thảo khoa học “220 năm quốc hiệu Việt Nam - Những chặng đường lịch sử (1804-2024)”
Sáng ngày 23/4/2024, Hội thảo khoa học với chủ đề “220 năm quốc hiệu Việt Nam - Những chặng đường lịch sử (1804-2024)” do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức mang “tầm vóc quốc gia” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam chủ trì, là hội thảo đầu tiên có quy mô cả nước về chủ đề này. Tham dự hội thảo, có PGS.TS Trần Đức Cường - Chủ tịch và PGS,TS Đỗ Bang - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế Phan Ngọc Thọ và Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế, cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các đại biểu đến từ nhiều trường đại học, học viện,….
Báo cáo đề dẫn tại hội thảo, TS. Phan Tiến Dũng - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, hội thảo khoa học đã tuyển chọn được 23 bài tham luận in trong kỷ yếu, các tham luận tập trung vào 03 mảng chủ đề chính, đó là: Những vấn đề chung; Quốc hiệu Việt Nam qua các tư liệu lịch sử; Quốc hiệu Việt Nam với sự phát triển đất nước qua các thời kỳ.
Tại hội thảo, các tham luận đã làm rõ: Trong lịch sử nước ta, tên gọi Việt Nam đã xuất hiện từ lâu, nhưng chưa phải là Quốc hiệu chính thức. Chính thức là phải đến năm Giáp Tý, ngày Đinh Sửu 17/02 (tức 28/3/1804), khi vua Gia Long làm lễ Khánh an kính cáo ở Thái miếu (trong Hoàng thành) đặt tên nước là Việt Nam. Trong lời chiếu, nhà vua khẳng định: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống… cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”. Dưới triều Nguyễn, Quốc hiệu Việt Nam được duy trì gần 04 thập kỷ qua 02 đời vua Gia Long và Minh Mạng. Trải qua các thời kỳ lịch sử, Quốc hiệu Việt Nam đã khẳng định vị thế của một đất nước độc lập và thống nhất với những chặng đường lịch sử của 220 năm Quốc hiệu Việt Nam.
Ngày Đinh Sửu 17/02, năm Giáp Tý (1804) Vua Gia Long đặt tên nước là Việt Nam từ năm 1804 (Ảnh tư liệu)
Đồng thời, các đại biểu, các nhà nghiên cứu có ý kiến cần làm rõ hơn: Ý nghĩa Quốc hiệu đất nước qua các thời kỳ; vị thế của Việt Nam qua những lần thay đổi Quốc hiệu; Quốc hiệu gắn với sự phát triển của đất nước.
Lật lại những trang sử vàng của dân tộc, quốc hiệu nước ta đã có từ lâu đời, trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ở mỗi giai đoạn, nước ta từng có những quốc hiệu khác nhau, như: Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt…
Quốc hiệu đầu tiên là Văn Lang, từ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư chắc chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc người Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ với nhau, bên cạnh các thành phần dân cư khác. Do nhu cầu trị thủy, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hóa ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng nên nước Văn Lang, tự xưng vua, mà sử cũ gọi là Hùng Vương, con cháu ông nhiều đời về sau vẫn nối truyền danh hiệu đó. Thời gian tồn tại của nước Văn Lang khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên (TCN) đến thế kỷ 3 TCN.
Quốc hiệu thứ hai là Âu Lạc, năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các nhóm người Việt. Thục Phán, thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt, được tôn làm người lãnh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 TCN, quân Tần phải rút lui. Với uy thế của mình, Thục Phán xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.
Quốc hiệu thứ ba là Vạn Xuân, năm 179 TCN, Triệu Đà - vua nước Nam Việt - tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng chiến của An Dương Vương thất bại. Suốt 07 thế kỷ tiếp đó, mặc dù các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta (Âu Lạc) thành nhiều châu, quận với những tên gọi khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn không xóa nổi cái tên “Âu Lạc” trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thường ngày của Nhân dân ta. Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng lãnh thổ. Tháng 2/544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế (lấy tên hiệu là Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời. Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các triều đình Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân bị vùi dập và chỉ được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.
Quốc hiệu thứ tư là Đại Cồ Việt, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, lên ngôi Hoàng đế (lấy tên hiệu là Đinh Tiên Hoàng) và cho đổi quốc hiệu là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn). Quốc hiệu này duy trì suốt thời Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
Quốc hiệu thứ năm là Đại Việt, năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý (Lý Thái Tông) liền cho đổi tên nước là Đại Việt và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần.
Quốc hiệu thứ sáu là Đại Ngu, tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu (“ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”, thịnh trị). Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
Lập lại quốc hiệu Đại Việt, sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê lợi lên ngôi, đặt lại tên nước là Đại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế). Quốc hiệu Đại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1801).
Quốc hiệu thứ bảy là Việt Nam từ năm 1804 đến nay, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, mở đầu thời kỳ Nhà Nguyễn và cho đổi tên quốc hiệu là Việt Nam, quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Tuy nhiên, hai tiếng “Việt Nam” lại thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ cuối thế kỷ XIV đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (ghi chép về các đời ở Việt Nam) do Trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ XV) nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), chẳng hạn ngay trong mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ văn đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ XVI - XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Phòng, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh… Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan”. Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ “Việt Nam” kiến tạo bởi hai yếu tố chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
Quốc hiệu thứ tám là Đại Nam, cuối thời vua Minh Mạng, quốc hiệu được đổi thành Đại Nam (năm 1838). Dù vậy, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội.
Quốc hiệu thứ chín là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 19/8/1945, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946. Suốt 30 năm tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia cắt, hai tiếng “Việt Nam” vẫn được sử dụng phổ biến từ Bắc chí Nam và trở thành thân thiết, thiêng liêng đối với mọi tầng lớp nhân dân.
Quốc hiệu thứ mười là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (khóa VI), toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa quốc hiệu Việt Nam trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế.
Kỷ niệm 220 năm “quốc hiệu Việt Nam” (1804-220) là dịp để các thế hệ hôm nay và mai sau nhận thức sâu sắc hơn nữa về “Quốc hiệu” - tên chính thức của một quốc gia, vừa biểu thị chủ quyền lãnh thổ, lại vừa thể hiện các yếu tố hợp pháp về chính trị, luật pháp, quân sự, văn hóa, ngoại giao của một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, trước những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, trí tuệ nhân tạo, biến đổi khí hậu,… việc ôn lại “Quốc hiệu Việt Nam” là một lời nhắc nhớ, khẳng định “độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” và tri ân sâu sắc những bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước, tạo nên dải đất hình chữ S, cùng vùng trời, vùng biển, đảo, quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa như ngày nay.
Lê Sơn