Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, hiến dâng cho Tổ quốc, cho Nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đại diện đối với toàn thể dân tộc ta luôn luôn khát vọng độc lập, tự do cho Tổ quốc, quê hương. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ rõ khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc… Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”[2].
Để hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do cho đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Cộng sản Đông Dương đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh phải trải qua muôn vàn khó khăn, hy sinh của biết bao đồng bào, chiến sĩ cả nước suốt 15 năm (1930-1945) để trịnh trọng tuyên bố với toàn thế giới rằng Việt Nam đã giành lại nền độc lập và quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng ấy: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh, chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!... Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”[3].
Tuy nhiên, khát vọng độc lập, tự do chính đáng của dân tộc Việt Nam lại bị thực dân Pháp chà đạp lên lẽ phải, nhân phẩm của con người, ngày 23/9/1945 quân Pháp tấn công chính quyền cách mạng tại Sài Gòn, chính thức tái xâm lược nước ta lần thứ hai. Để tiếp tục hiện hóa khát vọng độc lập, tự do, cả dân tộc ta dưới dự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng lên kháng chiến chống quân xâm lược trường kỳ suốt 09 năm dài với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954.
Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, tháng 11/1946 chúng đưa quân tấn công Hải Phòng và tiến vào Hà Nội. Trước tình hình nguy cấp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời kêu gọi toàn quốc kháng chiến để bảo vệ thành quả độc lập, tự do cho dân tộc ta với khí thế vô cùng mãnh liệt: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta. Việt Nam độc và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”[4]. Lời “hịch” hiệu triệu non sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hàng triệu người dân Việt Nam như một tiếp tục phát huy truyền thống quý báu của: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[5] để hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do.
Để khát vọng độc lập, tự do trở thành hiện thực trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Đảng Cộng sản Đông Dương (từ năm 1951 là Đảng Lao động Việt Nam) đã đề ra đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ ủng hộ của quốc tế” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Việt Nam. Với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng suốt, linh hoạt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh từng bước quân dân ta giành nhiều thắng lợi về quân sự trên chiến trường, ổn định tình hình chính trị, kinh tế vùng tự do, giải phóng (quân dân ta giành thắng lợi trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp, bảo vệ vững chắc cơ quan đầu não kháng chiến và căn cứ địa Việt Bắc; thắng lợi trong chiến dịch Biên Giới Thu - Đông năm 1950, quân Pháp bị thất bại lớn về chính trị, quân sự, bị đẩy vào thế phòng ngự, bị động, làm thay đổi cục diện trên chiến trường có lợi đối với quân và dân ta, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tiến lên).
Năm 1953, trải qua 08 năm chiến tranh tái xâm lược nước ta, thực dân Pháp ngày càng sa lầy trên chiến trường, sức mạnh quân sự bị suy giảm nghiêm trọng, kinh tế từng bước gặp khó khăn, buộc nước Pháp lần lượt dựa vào sự hậu thuẫn của Mỹ để tiếp tục chiến tranh ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho kinh tế Pháp ngày càng khủng hoảng, tài chính ngày càng thiếu hụt, thuế khóa ngày càng nặng nề, nhân dân ngày càng cực khổ, chính trị ngày càng bối rối, quân sự ngày càng suy yếu. Chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho Pháp ngày càng bị phụ thuộc vào đế quốc Mỹ”[6] không lối thoát danh dự tại chiến trường.
Trong khi đó, thế và lực của quân dân ta ngày một phát huy mạnh mẽ, vùng giải phóng được mở rộng, căn cứ kháng chiến được giữ vững, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từng bước tiến lên giành thắng lợi. Ngày 07/5/1953, được sự thỏa thuận từ Mỹ nhằm cứu nguy thất bại quân sự của thực dân Pháp, Chính phủ Pháp cử tướng Navarre làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau khi sang Đông Dương, Navarre đề ra kế hoạch của mình với hy vọng trong thời gian 18 tháng sẽ giành thắng lợi kết thúc chiến tranh trong danh dự cho thực dân Pháp. Trong khi đó, “nhân dân Pháp, nhất là nhân dân lao động, ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta. Ta đánh càng mạnh, thắng càng nhiều, thì phong trào nhân dân Pháp càng lên cao, bọn phản động Pháp càng bị cô lập. Ta đánh cho thực dân Pháp và can thiệp Mỹ quỵ hẳn đi, thì Nhân dân ta và nhân dân Pháp sẽ có dịp bắt tay nhau, cùng nhau giữ gìn hòa bình thế giới”[7] với tinh thần luôn khát vọng độc lập, tự do. Ngày 02/9/1953, trong lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng Tám và ngày độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta bao giờ cũng chủ trương hòa bình. Nhưng chúng ta biết rằng cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ có thắng lợi mới tranh được hòa bình. Chỉ có thống nhất và độc lập thực sự mới có hòa bình… Toàn dân đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, làm tròn nghĩa vụ, đẩy mạnh kháng chiến, giữ vững độc lập. Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi! Độc lập thống nhất, nhất định thành công!”[8], khát vọng độc lập, tự do nhất định trở thành hiện thực.
Ngày 26/11/1953, qua trả lời phỏng vấn của nhà báo Thụy Điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng tỏ rõ hơn nữa khát vọng hòa bình, độc lập của dân tộc Việt Nam, rằng: Dân tộc Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình, mong muốn hòa bình và cả nhân dân Pháp cũng yêu thương hòa bình. Nhà báo Thụy Điển hỏi: Cuộc thảo luận ở Quốc hội Pháp đã chứng tỏ rằng một số lớn người chính trị Pháp muốn dàn xếp một cách hòa bình vấn đề xung đột ở Việt Nam bằng cách thương lượng trực tiếp với Chính phủ Việt Nam. Ý nguyện ấy càng rộng khắp trong nhân dân Pháp. Thế thì Cụ và quý Chính phủ hoan nghênh ý nguyện ấy hay không? Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do được sống hòa bình. Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì Nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp thu ý muốn đó[9]. Đồng thời, nhà báo Thụy Điển hỏi: Một sự ngừng bắn hoặc một cuộc đình chiến có thể có được không? Và trên căn bản nào? Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: Miễn là Chính phủ Pháp đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược thì cuộc đình chiến ở Việt Nam thực hiện. Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt Nam[10]. Qua nội dung trả lời nhà báo Thụy Điển của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng tỏ rõ khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, tuy nhiên đứng trước âm mưu ngoan cố xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, toàn thể dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Trước khi bắt đầu chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ hơn một tháng, qua bài thơ chúc Tết Xuân Giáp Ngọ ngày 01/02/1954 của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Năm mới quân dân ta có hai nhiệm vụ rành rành.
Đẩy mạnh kháng chiến để giành độc lập, tự do.
Cải cách ruộng đất là công việc rất to.
Dần dần làm cho người cày có ruộng khỏi lo nghèo nàn.
Quân và dân ta nhất trí đoàn kết.
Kháng chiến kiến quốc nhất định hoàn toàn thành công.
Hòa bình dân chủ thế giới khắp Nam, Bắc, Tây, Đông.
Năm mới, thắng lợi càng mới thành công càng nhiều”[11].
Đồng thời, những lời thơ chúc Tết của Bác vừa là mừng Xuân, vừa nêu nhiệm vụ, căn dặn, chỉ bảo cụ thể mà khái quát sâu xa, tác động mạnh mẽ đến tấm lòng mỗi người dân, cán bộ, chiến sĩ, góp phần không nhỏ vào thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đáp ứng yêu cầu hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Năm 2024, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trải qua 70 mùa xuân, toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do thành sự phát triển toàn diện đất nước giàu đẹp, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong ước.
Giá trị lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là một trong những nhân tố quan trọng khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược, bảo vệ độc lập (1945-1954), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy tinh thần tự lực, tự cường với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, tinh thần tự lực, tự cường ấy tiếp tục được phát huy để xây dựng một Việt Nam, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Người đứng đầu của Đảng ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chia sẻ những cảm xúc, suy ngẫm của mình về phấn đấu hiện thực hóa khát vọng phát triển toàn diện đất nước, sánh vai cùng các cường quốc năm châu, đó là: “Tôi mong đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài tiếp tục phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường, khát vọng, trí tuệ và nhiệt huyết, chung sức đồng lòng vững bước trên con đường đổi mới, vì một Việt Nam hòa bình, độc lập, phát triển cường thịnh”[12]. Theo đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam từ một nước nhược tiểu, nghèo đói đã phát huy truyền thống cách mạng vươn dần lên trở thành nước đạt mức thu nhập trung bình, đời sống vật chất, tinh thần người dân không ngừng cải thiện, nhiều thành quả kinh tế, xã hội được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; hoạt động đối ngoại, quan hệ quốc tế không ngừng được mở rộng, hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư được tăng cường thực chất. Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, thiết chế hợp tác kinh tế đa phương, song phương, có vai trò, tiếng nói quan trọng trong khu vực và trên trường quốc tế.
Ngày nay, giá trị lịch sử cách mạng nói chung, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 nói riêng trở thành nguồn sức mạnh tinh thần to lớn, phát huy tiềm lực, sức mạnh nội sinh, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước thời kỳ mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định chủ đề “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” đã từng bước hiện thực hóa khát vọng từ giành độc lập, tự do qua chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” thành phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Đồng thời, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đánh giá: Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay[13]. Theo đó, so với nhiệm kỳ khóa XII (2015-2020), kinh tế nước ta có sự chuyển biến tích cực, toàn diện trên nhiều lĩnh vực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát luôn được kiểm soát ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; nợ công giảm, nợ xấu được kiểm soát. Mặc dù năm cuối nhiệm kỳ, đại dịch COVID-19 và thiên tai, bão lũ nghiêm trọng ở các tỉnh miền Trung đã tác động nặng nề tới mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016-2020 vẫn đạt khoảng 6%/năm (riêng năm 2020 tăng trưởng GDP vẫn đạt 2,91% là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD/người). Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011-2015 lên 5,9%/năm giai đoạn 2016-2020. Trong đó, đất nước đã cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng được tập trung thực hiện và bước đầu đạt những kết quả quan trọng; cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm, tỉ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển nhanh; công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng cao tỉ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng của sản phẩm. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tiếp tục tăng; du lịch phát triển nhanh. Nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần 02 năm so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân[14].
Trên nguyên tắc bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa và bổ sung phù hợp với những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; đồng thời, nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển chung của thế giới, chúng ta xác định các mục tiêu cụ thể không chỉ trong nhiệm kỳ khóa XIII mà hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới đó là: Đến năm 2025, là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Nhân dịp đón Xuân Giáp Thìn năm 2024 và kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh (03/02/1930-03/02/2024), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trả lời phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam: Với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”; qua 03 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, chúng ta đã vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả. Kinh tế nước ta tiếp tục là điểm sáng, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát, nợ công, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Từ những kết quả đạt được và kinh nghiệm đã có, tôi tin tưởng rằng với khí thế mới, động lực mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sẽ tiếp tục đoàn kết, chung sức, đồng lòng, phấn đấu, quyết tâm, nỗ lực cao hơn nữa; năng động, sáng tạo hơn nữa, sáng suốt nắm bắt thời cơ, thuận lợi, vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho cả nhiệm kỳ khóa XIII, xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển, cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, như Bác Hồ và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hằng mong đợi[15].
Năm 2024, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã đi qua 70 mùa xuân (07/5/1954-07/5/2024) mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những chiến công quân sự quan trọng nhất. Chiến thắng ấy là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí Minh, có ý nghĩa giáo dục lý tưởng cách mạng, là hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam luôn luôn khát khao, yêu chuộng hòa bình. Từ ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đến nay, có rất nhiều sự kiện diễn ra trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, nhưng các thế hệ người dân Việt Nam trong và ngoài nước, nhân dân yêu chuộng hòa bình, khát vọng độc lập, tự do trên thế giới mãi mãi ngưỡng mộ, tôn vinh chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” - Một trong những chiến công oanh liệt của ý chí, tinh thần tự lực, tự cường, sức mạnh của người Việt Nam, của khát vọng độc lập, tự do trong thế kỷ XX; chiến thắng đó mang tầm vóc thời đại Hồ Chí Minh, mở đầu sự sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nhất là ở châu Phi, Mỹ La tinh đứng lên giành độc lập, tự do.
Ngày nay, toàn thể dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước, nhất là thế hệ trẻ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do từ chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 thành khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.112.
[2], [3], [4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.1; tr.3; tr.534.
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.38.
[6], [7], [8], [9], [10], [11] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.226; tr.214; tr.228, 230; tr.340; tr.340; tr.400.
[12] Thông tấn xã Việt Nam (2020), Phỏng vấn đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhân dịp đầu năm mới 2020, https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-nguyen-phu-trong-chung-suc-dong-long-vi-mot-viet-nam-cuong-thinh-102266466.htm (truy cập ngày 25/01/2024).
[13], [14[ Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.25; tr.61.
[15] Thông tấn xã Việt Nam (2024), Phỏng vấn đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân dịp đầu năm mới 2024, https://special.nhandan.vn/Tong-Bi-thu-Nguyen-Phu-Trong/index.html (truy cập ngày 25/01/2024).
Lê Quang Cần