Chiến thắng Điện Biên Phủ - “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”

03/05/2025 13:06:57 46      Chọn cỡ chữ A a  

Chiến thắng Điện Biên Phủ “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc". Chiến thắng lẫy lừng đó đã nêu một tấm gương chói sáng khích lệ tinh thần vùng lên tự giải phóng cho các dân tộc bị áp bức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời, phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”.

Điện Biên Phủ có vị trí chiến lược quan trọng - Điện Biên Phủ là một thung lung lòng chảo rộng lớn ở phía Tây vùng núi Tây Bắc, có vị trí chiến lược then chốt ở Đông Dương và Đông Nam Á nên Pháp cố nắm giữ. Thực dân Pháp được sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ cả về mặt kinh tế, quân sự và các chuyên gia về quân sự. Dựa vào viện trợ của Mỹ, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành trung tâm của kế hoạch Na-va, thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương gồm: 49 cứ điểm, 16.200 quân lính, 12 tiểu đoàn, 07 đại đội bộ binh, 03 tiểu đoàn pháo binh, 01 tiểu đoàn công binh, 01 đại đội vận tải, 01 đại đội tăng M24, có cả sân bay với một phi đội 12 máy bay thường trực. Để bảo vệ phía Tây Bắc - Thượng Lào và nhằm phá vỡ cuộc tiền công Đông Xuân của quân ta. Thực dân Pháp huênh hoang và khẳng định cho rằng Điện Biên Phủ là” pháo đài khổng lồ không thể công phá” và “bất khả xâm phạm”.

Chủ trương của Đảng

Cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân (1953-1954): Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng mà địch tương đối yếu, có nhiều sơ hở, và cùng lúc đó tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta. Đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong Nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho bộ phận chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ.

Chiến dịch Điện Biên Phủ qua những bức ảnh tư liệu lịch sử quý giá- Ảnh 1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì nghe Tổng Quân ủy báo cáo và duyệt lần cuối kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954, đồng thời, quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ - Ảnh sưu tầm

Phương châm, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược là: tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Tổng quân số huy động 55.000 quân chủ lực, hơn 10 vạn người, 26.400 lực lượng dân công, thanh niên xung phong, và các lực lượng khác đã tham gia Chiến dịch, trên tinh thần tất cả tập trung cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Quân và dân các địa phương đã huy động hơn 21.000 lượt xe đạp thồ, 11.800 thuyền bè, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ, xe trâu, một đội ô tô 628 chiếc… đã vận chuyển 30.759 tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí, quân dụng… để phục vụ Chiến dịch. Đầu tháng 3/1954 công tác chuẩn bị của ta đã hoàn tất, đến ngày 13/3/1954 quân ta nổ súng tấn công.

chien dich Dien bien phu thang loi ve vang cua chien tranh nhan dan hinh anh 2

26.400 lượt dân công cùng hơn 21.000 xe đạp thồ đã dồn sức tiếp tế cho bộ đội ta tại Điện Biên Phủ (Ảnh TL)

Chiến dịch Điện Biên Phủ

Đợt 1: Từ ngày 13/3-17/3/1954: Quân ta đã dũng cảm, mưu trí tiêu diệt gọn cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; tiêu diệt và bắt sống trên 2.000 quân địch, xóa sổ 01 trung đoàn, phá hủy 25 máy bay, uy hiếp sân bay Mường Thanh; Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ - Đại tá Pirốt bất lực trước pháo binh của ta nên đã dùng lựu đạn để tự sát.

Đợt 2: Từ ngày 30/3-30/4/1954: Quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho các tập đoàn cứ điểm. Để muốn kéo dài thời gian nên quân địch hết sức ngoan cố. Tướng Nava hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, quyết liệt nhất, dài ngày nhất, cam go nhất, ta và địch giành giật nhau từng đoạn giao thông hào và từng tấc đất. Đặc biệt, tại đồi C1 quân ta và quân Pháp đã giằng co nhau tới 20 ngày, tại đồi A1 đã giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn của các nình súng bên quân ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động và tinh thần chiến đấu giảm xuống rõ dệt.

Đợt 3: Từ ngày 01/5-07/5/1954: Quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng tiến công tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 06/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa quân ta và quân địch diễn ra rất quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên đã tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ để phá các hầm ngầm. Tên chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải xin đầu hàng. Vào lúc 17 giờ 30 phút, ngày 07/5/1954, quân ta đã chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải xin đầu hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của quân địch. Và ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh cho địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ cùng ngày thì tất cả toàn bộ quân của địch đã bị quân ta bắt.

Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của quân địch - Ảnh sưu tầm

Như vậy, sau 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Kết quả, bắt sống tướng De Castries, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và tịch thu toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. Giải phóng được nhiều vùng rộng lớn. Đã giáng một đòn mạnh quyết định, đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava của thực dân Pháp.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân (1953-1954) là chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Chiến thắng này góp phần quyết định đập tan hoàn toàn dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh ở Đông Dương.

Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954) đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Huy Dương

Bản in
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

    Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

  • Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

    Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

  • Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

  • Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

    Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

  • Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

  • Hôm nay:   38320
  • Tháng hiện tại:   380006
  • Tổng lượt truy cập:   8012461