Dấu ấn của những vị tướng từng tham gia chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954

06/05/2024 20:09:36 3743      Chọn cỡ chữ A a  

Ngày 07/5/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi. Đây là một trong những thắng lợi to lớn nhất, oanh liệt nhất thế kỷ XX và trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Để làm nên chiến thắng Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là công sức của toàn quân và toàn dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó, không thể thiếu công lao, vai trò to lớn của các tướng lĩnh Việt Nam, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận cũng như sĩ quan các cấp từ đại đoàn trở xuống. Họ đã mưu trí, dũng cảm, trực tiếp đóng góp tài trí, công sức, xương máu, hy sinh to lớn cho chiến thắng vang dội này.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quân đội ta là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng”, điều đó đã được chứng minh trong suốt chiều dài lịch sử, với ngọn lửa yêu nước truyền thống bất diệt của dân tộc kết hợp tài trí của các tướng lĩnh chỉ huy chiến trường đã làm thất bại mọi ý đồ xâm lược của các cường quốc. Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ, bao gồm: Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Đại tướng Võ Nguyễn Giáp; Tham mưu trưởng Thiếu tướng Hoàng Văn Thái; Chủ nhiệm chính trị đồng chí Lê Liêm; Chủ nhiệm hậu cần Thiếu tướng Đặng Kim Giang. Các đơn vị tham gia chiến dịch bao gồm: Đại đoàn bộ binh 308, danh hiệu quân Tiên Phong, mật danh Việt Bắc có Tư lệnh trưởng Đại tá Vương Thừa Vũ; Chính ủy Đại tá Song Hào; Tham mưu trưởng Đại tá Nguyễn Hải; Đại đoàn bộ binh 304, danh hiệu Vinh Quang, mật danh Nam Định có Tư lệnh trưởng Đại tá Hoàng Minh Thảo; Chính ủy đồng chí Lê Chưởng; Tham mưu trưởng đồng chí Nam Long; Đại đoàn 312, danh hiệu Chiến Thắng, mật danh Bến Tre có Tư lệnh trưởng Đại tá Lê Trọng Tấn; Chính ủy đồng chí Trần Độ; Tham mưu trưởng Hoàng Kiên; Đại đoàn bộ binh 316, danh hiệu Bồng Lân, mật danh Biên Hòa có Tư lệnh trưởng Đại tá Lê Quảng Ba; Chính ủy Chu Huy Mân; Tham mưu trưởng Vũ Lập; Đại đoàn công binh, pháo binh 351, mật danh Long Châu có Tư lệnh trưởng Đại tá Đào Văn Trường; Quyền Chính ủy Phạm Ngọc Mậu.

So với tướng lĩnh và quân đội nhà nghề của thực dân Pháp, các tướng lĩnh Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ phần nhiều chưa kinh qua các trường đào tạo sĩ quan quân sự. Họ xuất thân là thầy giáo dạy lịch sử, sinh viên trường luật, thanh niên nông thôn,… Nhưng trên chiến trường, họ đã thể hiện một tư duy chiến lược, chiến thuật, tác chiến,… rất tuyệt vời. Ngoài các tướng lĩnh cao cấp thuộc Bộ chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp - UVBCT, làm Bí thư Đảng ủy và Chỉ huy trưởng mặt trận thì các tướng lĩnh, sĩ quan chỉ huy từ đại đoàn xuống tiểu đoàn đã thể hiện trí tuệ, bản lĩnh, chủ động, mưu trí, sáng tạo, linh hoạt trong từng trận đánh. Tuy nhiên, không giấy mực nào có thể nói lên hết công lao, vai trò, sự hy sinh to lớn của các tướng lĩnh và QĐNDVN anh hùng. Trong khuôn khổ thiết thực chào mừng kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954-07/5/2024), bài viết đề cập về một số dấu ấn của những vị tướng từng tham gia chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Họ là các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy chiến đấu trên chiến trường như: Hoàng Văn Thái, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn, Vương Thừa Vũ, Song Hào, Lê Quảng Ba, Lê Chưởng, Hoàng Minh Thảo, Phạm Hồng Sơn, Hoàng Kiện, Vũ Lăng,...

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (28/8/1911-04/10/2013) sinh ra ở Quảng Bình, là Đại tướng đầu tiên của QĐNDVN. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng là Tổng Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận, là một huyền thoại quân sự thế giới khi chỉ huy một quân đội non trẻ đánh bại cường quốc quân sự; người có quyết định táo bạo chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Dấu ấn của Đại tướng trong chiến dịch Điện Biên chính là "không chỉ đánh thắng một đội quân hùng mạnh của một đế quốc thực dân đầu sỏ hàng đầu thế giới lúc bấy giờ, mà còn giải phóng Nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên nói riêng, cả vùng Tây Bắc nói chung khỏi ách lầm than dưới sự đô hộ, chiếm đóng của thực dân Pháp". Đại tướng còn để lại dấu ấn bởi tình thương, trách nhiệm trước sinh mạng của hàng vạn cán bộ, chiến sỹ và hàng triệu người dân khi quyết định tạm dừng ngày mở màn chiến dịch, cho kéo pháo ra để chuẩn bị lại và kỹ hơn trận địa, đồng thời chuyển từ chiến thuật “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” nhằm giảm tổn thất, hy sinh xương, máu của bộ đội. Vì thế không chỉ giành chiến thắng tuyệt đối trước quân xâm lược Pháp, làm cho quân Pháp thua tâm phục, khẩu phục, mà còn giữ nguyên được các đơn vị bộ đội chủ lực vừa mới thành lập 10 năm trước, là vốn liếng rất ít ỏi, nhưng vô cùng quý giá của QĐNDVN còn non trẻ lúc bấy giờ. Tên gọi Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh - Võ Nguyên Giáo được ngân vang trên vũ đài chính trị thế giới, là thắng lợi chung của cả dân tộc Việt Nam. Đây cũng là thành công của Đại tướng, một con người có tài năng quân sự thiên bẩm, một lòng vì nước, vì dân, vì sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội, đã góp phần làm rạng danh truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đại tướng được thế giới biết đến như một trong những danh tướng của thế kỷ XX. 

 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911-04/10/2013)

 

Đại tướng Hoàng Văn Thái (01/5/1915-02/7/1986), sinh ra ở Thái Bình, là Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của QĐNDVN. Trong dịch Điện Biên Phủ, ông là Tham mưu trưởng trong Chiến dịch quan trọng mang mật danh Trần Đình. Ngày 26/11/1953, Ông dẫn đầu đoàn cán bộ của Bộ Tư lệnh tiền phương lên đường đi Tây Bắc nghiên cứu thực địa. Ngày 30/11/1953, đoàn đến Nà Sản, Ông chủ trương cho đoàn dừng lại một ngày để nghiên cứu tập đoàn cứ điểm mà người Pháp vừa rút bỏ vào tháng 8 dù trận công kích của Quân đội ta đã không đạt mục đích, việc này đã giúp chuẩn bị kinh nghiệm rất nhiều cho trận đánh sau này. Khi được lệnh hoãn thời gian nổ sung, rút quân chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, Ông đã chấp hành nghiêm, ra lệnh cho các đơn vị rút về vị trí tập kết theo đúng chỉ thị của Tổng tư lệnh, một quyết định mà lịch sử chứng minh sự đúng đắn của nó khi tạo nên một chiến thắng chấn động thế giới; Ông đã cùng đưa ra và thực hiện nhiềug quyết sách quan trọng của Bộ Chỉ huy Chiến dịch và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, từ việc chuyển phương châm tác chiến cho đến công tác chuẩn bị, hậu cần từng trận đánh. “Đó là những yếu tố chủ quan quyết định thành công của Bộ Tổng Tham mưu trong chiến dịch Điện Biên Phủ”. Ông là Tham mưu trưởng đắc lực bên cạnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tài năng và sự cống hiến của mình.

 

Đại tướng Hoàng Văn Thái

Đại tướng Chu Huy Mân

Đại tướng Lê Trọng Tấn

 

Đại tướng Lê Trọng Tấn (01/10/1914-5/12/1986), sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Tư lệnh Đại đoàn Bộ binh 312 của Chiến dịch. Dấu ấn của Ông gắn liền với Đại đoàn 312 trên khắp các chiến trường, đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ông đã chỉ huy Đại đoàn 312 đánh trận mở đầu tiêu diệt cứ điểm Him Lam - Pháo đài bất khả xâm phạm(do cố vấn Mỹ thiết kế và trực tiếp đôn đốc thi công, là trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch thuộc phân khu Trung tâm, cách Mường Thanh hơn 2,0 km, án ngữ con đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên Phủ) bắt sống tướng De Castries cùng ban chỉ huy tại tập đoàn cứ điểm. Tướng Mỹ O'Daniel và tướng De Castries thân chinh bố phòng, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Pleven đã đến tận nơi kiểm tra, khen ngợi. Một tù binh Pháp phòng thủ Him Lam bị bắt trước khi mở màn chiến dịch có nói: “Đánh được Him Lam thì các ông có thể đánh được bất cứ chỗ nào ở Điện Biên Phủ”. Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, Đại đoàn 312 đã chiến thắng trong trận mở màn, tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Him Lam. Đồng chí Lê Trọng Tấn cũng là người chỉ huy đơn vị tiến công vào sở chỉ huy bắt sống tướng De Castries và Bộ Tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Đại tướng Chu Huy Mân (17/3/1913-01/7/2006), sinh ra và lớn lên ở Nghệ An. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Chính ủy Đại đoàn Bộ binh 316. Dấu ấn của ông trong chiến dịch là chỉ huy Đại đoàn 316 tiến công phía Đông, đánh những vị trí then chốt như đồi C1, C2 và A1, Tổng cố vấn cùng 100 cán bộ quân sự sang giúp Lào để buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Geneve. Ông luôn tỏ rõ là người lãnh đạo thực tiễn xuất sắc, nắm vững thực tiễn, đi sát thực tiễn, am hiểu tình hình địa bàn nơi đơn vị đóng quân, tác chiến, hiểu rõ tình hình đơn vị và đời sống bộ đội, Đồng chí đã cùng lãnh đạo, chỉ huy Đại đoàn 316 đề ra những chủ trương và biện pháp phù hợp, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp trên giao phó, góp phần vào thành tích chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

 

Thướng tướng Song Hào

Thướng tướng Hoàng Minh Thảo

 

Thượng tướng Song Hào (20/8/1917-09/01/2004), sinh ra ở Nam Định. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Ông là Chính ủy Đại đoàn Bộ binh 308, Bí thư Đại đoàn ủy. Ông đã cùng với Bộ Chỉ huy Đại đoàn tập trung xây dựng Đại đoàn và Đảng bộ Đại đoàn vững mạnh. Đặc biệt, trình độ tác chiến và ý thức tổ chức kỷ luật của bộ đội được duy trì chặt chẽ, là cơ sở để Đại đoàn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Bộ Tổng Tư lệnh giao phó. Trong điều kiện gặp muôn vàn khó khăn, gian khổ, nhưng bằng tinh thần của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, Ông đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao phó. Ông luôn thể hiện tài thao lược về chính trị và quân sự, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân giành chiến thắng Điện Biên Phủ, hoàn thành sự nghiệp kháng chiến trường kỳ, để lại dấu ấn sâu đậm trong cuộc đời hoạt động cách mạng. 

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (25/10/1921-08/9/2008), sinh ra ở Hưng Yên. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Ông là Tư lệnh Đại đoàn Bộ binh 304. Ông chỉ huy là một trong năm Đại đoàn chủ lực tác chiến bao vây Hồng Cúm, tiêu diệt Mường Thanh. Chỉ huy Trung đoàn 57 thuộc Đại đoàn 304 có nhiệm vụ xây dựng một trận địa hình cánh cung, chạy từ Đông sang Tây, cắt rời phân khu Hồng Cúm khỏi khu trung tâm Mường Thanh... Đầu tháng 4/1954, trận địa của Trung đoàn 57 bắt đầu lấn dần vào phân khu, ta đã xây dựng một trận địa cắt rời phân khu Nam với khu trung tâm Mường Thanh, những đường chiến hào của Trung đoàn 57 ngày càng tiến vào gần các lô cốt địch. Việc đào hệ thống giao thông hào kết hợp đánh áp sát và bắn tỉa khiến diện tích chiếm đóng của quân Pháp bị thu hẹp. Mọi tiếp tế cho Tập đoàn cứ điểm địch chỉ bằng con đường thả dù. Trung đoàn 57 thu được khá nhiều dù tiếp tế, có ngày thu được trên 3,0 tấn hàng các loại. Bước sang tháng 5/1954, khi những thắng lợi của ta ngày càng mở rộng trên khắp chiến trường Điện Biên, thì số lính Pháp đóng tại phân khu Nam ngày càng bị siết chặt bởi những vòng vây lửa của bộ đội ta. “Sau khi quân địch tại Mường Thanh đầu hàng, bọn địch ở Hồng Cúm cũng im tiếng súng. Mấy tháng trời nay, Đại đoàn 304 đã bao vây, tác chiến với 2.000 quân tại đây, buộc tay, buộc chân quân địch làm cho chúng hầu như mất hẳn tác dụng bảo vệ, ứng cứu cho Mường Thanh”. Những chiến công của Ðại đoàn 304 đã làm tê liệt hoàn toàn phân khu Nam, ngăn sự chi viên cho Trung tâm Mường Thanh, là một thành tích đáng kể góp phần cùng  dân và quân ta làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954).

Không chỉ có các tướng lĩnh trên, để có được chiến thắng, còn có dấu ấn, công lao, vai trò to lớn của của rất nhiều các tướng lĩnh, cũng như toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Họ chính là những anh hùng đã viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc. Để rồi ngày 07/5/1954 tạo nên thời khắc lịch sử vĩ đại của dân tộc ta, kết thúc chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”. Dưới cờ đỏ sao vàng quyết chiến quyết thắng”, toàn dân, toàn quân ta đã quyết tâm vượt qua mọi khó khăn “56 ngày đêm” để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Chính phủ giao phó. Đây được xem là chiến thắng vĩ đại của thế kỷ XX, một thắng lợi có phần đóng góp không nhỏ của các tướng lĩnh cao cấp từ Bộ Chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ cho tới các tướng lĩnh trực tiếp trên chiến trường với một quyết tâm cao “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Kỷ niệm 70 năm là dịp để tiếp tục khẳng định tầm vóc, ý nghĩa lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ; khẳng định chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng giữ vai trò quyết định; sự đóng góp của các tướng lĩnh cao cấp từ Bộ Chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa của thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”[1], là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến lên giành những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến anh hùng”, đạt thành tựu sau gần 38 năm đổi mới và hội nhập đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[2].

-----

[1] Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.50.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.25.

                                                                                                                                                                                                                                                        Lê Sơn


 

Bản in
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

    Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

  • Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

    Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

  • Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

  • Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

    Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

  • Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

  • Hôm nay:   43767
  • Tháng hiện tại:   385453
  • Tổng lượt truy cập:   8017907