Hiệp định Paris ngày 27/01/1973 và những dấu ấn đối ngoại quan trọng của Đảng ta thời kỳ đổi mới và hội nhập

26/01/2024 15:46:33 17806      Chọn cỡ chữ A a  

Ngày 27/01/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức được ký kết, buộc Mỹ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Những bài học quý giá và ý nghĩa lịch sử to lớn của Hiệp định Paris góp phần quan trọng tạo nên những dấu ấn nổi bật của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay.

Cách đây hơn 51 năm, thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 đã đẩy đế quốc Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa vào tình thế nguy khốn, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế đó, chính quyền Nixon đã “Mỹ hóa” trở lại chiến tranh, mở cuộc tập kích chiến lược bằng đường không vào miền Bắc nhằm đánh phá, hủy diệt tiềm lực kinh tế, quốc phòng của ta, đưa miền Bắc xã hội chủ nghĩa (XHCN) quay về “thời kỳ đồ đá”, gây áp lực buộc ta phải hạ thấp và ký Hiệp định Paris với những điều khoản có lợi cho Mỹ,… Trong bối cảnh đó, từ ngày 18-29/12/1972, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, quân và dân miền Bắc đã anh dũng, mưu trí đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không quy mô lớn chưa từng có của đế quốc Mỹ, làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lặp lại hòa bình ở Việt Nam.

Để đi đến Hiệp định Paris, Nhân dân Việt Nam (gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 02/9/1945, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời ngày 20/12/1960, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập ngày 06/6/1969) đã phải anh dũng chiến đấu, giành những thắng lợi về quân sự có tính quyết định trên chiến trường, đồng thời, phải đấu trí vô cùng cam go, phức tạp và quyết liệt của Việt Nam và Mỹ trên bàn đàm phán, trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, kéo dài suốt 05 năm (1968-1973) với khoảng 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và một số nước đã diễn ra hàng ngàn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Trước những thắng lợi về chính trị, quân sự của ta; những thất bại của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức được ký kết ngày 27/01/1973. Hiệp định đã buộc Mỹ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Quang cảnh Lễ ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris nước Pháp (Ảnh tư liệu)

Nội dụng của Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam có 9 chương 23 điều, gồm 4 loại điều khoản chính như sau:

Thứ nhất, các điều khoản chính trị ghi các cam kết của Hoa Kỳ: Tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, tôn trọng quyền tự quyết của Nhân dân miền Nam Việt Nam; Hoa Kỳ không tiếp tục dính líu quân sự, không can thiệp công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

Thứ hai, các điều khoản về quân sự: Ngừng bắn, Hoa Kỳ rút hết quân trong 60 ngày, chấm dứt bắn phá miền Bắc, nhận tháo gỡ mìn do Hoa Kỳ đã rải ở miền Bắc.

Thứ ba, các điều khoản về nội bộ miền Nam: Nguyên tắc hòa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử tự do, thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải, hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần để tổ chức tổng tuyển cử.

Thứ tư, các điều khoản về thống nhất Việt Nam, về Lào và Campuchia; về cơ cấu thi hành Hiệp định Ủy ban Liên hợp và Ủy ban quốc tế; về Hội nghị quốc tế xác nhận Hiệp định và điều khoản việc Hoa Kỳ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

 Hiệp định Paris có ý nghĩa lịch sử: Hiệp định Paris là thắng lợi của sức mạnh tổng lực trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao; là thắng lợi vẻ vang của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam; đánh dấu bước trưởng thành tột bậc của nền ngoại giao cách mạng thời đại Hồ Chí Minh. Hiệp định Paris là bước ngoặt lịch sử, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, tài tình của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, sự chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Nhân dân ta được kết hợp thành sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo ra thế và lực mới cho cuộc chiến đấu của dân tộc ta, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng, đi đến Đại thắng mùa xuân 1975. Hiệp định Paris là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên, toàn diện nhất, đầy đủ nhất ghi nhận các quyền cơ bản của Nhân dân Việt Nam; là sự công nhận chính thức của quốc tế đối với nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam [1].

Hiệp định Paris còn là đỉnh cao của nền ngoại giao Việt Nam, kiên định và giữ vững nguyên tắc “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” đã kinh qua suốt  chiều dài lịch sử ngoại giao của dân tộc Việt Nam; phát huy cao độ bản lĩnh, trí tuệ nền ngoại giao Việt Nam tự chủ và đoàn kết quốc tế; mang đậm bản sắc truyền thống ngoại giao “cây tre Việt Nam”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam, đó là: “Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của Nhân dân; đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; biết nhu, biết cương, biết thời, biết thế, biết mình, biết người, biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”, “dĩ bất biến ứng vạn biến” [2]. Thắng lợi của Hiệp định Paris và việc Mỹ rút khỏi Việt Nam đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Lào và Campuchia; góp phần mở ra một giai đoạn mới ở khu vực Đông Nam Á - giai đoạn hòa bình, ổn định, khép lại quá khứ, hướng đến xây dựng cộng đồng ASEAN. Hiệp định Paris là một minh chứng hùng hồn cho chân lý “đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo”, củng cố niềm tin của nhân dân yêu chuộng hòa bình và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của mình. Hiệp định Paris đã đi vào lịch sử là cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì độc lập, tự do, vì hòa bình, công lý.

Bài học kinh nghiệm của Hội nghị Paris và Hiệp định Paris: Để lại cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta nhiều bài học sâu sắc, có ý nghĩa to lớn trong tình hình hiện nay:

Trước hết, là bài học về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta mở ra mặt trận ngoại giao, phát huy thế mạnh của ngoại giao, phối hợp với các mặt trận chính trị, quân sự; lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất các mặt trận, “vừa đánh, vừa đàm”, tạo ra sức mạnh tổng hợp, giành toàn thắng.

Thứ hai, là bài học về kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia dân tộc; vận dụng đúng đắn phương châm ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tạo thời cơ, kéo địch vào đàm phán, chủ động tấn công ngoại giao và kết thúc đàm phán khi điều kiện chín muồi; xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế rộng rãi đối với cuộc kháng chiến của Nhân dân ta để làm nên thắng lợi của Hội nghị Paris.

Thứ ba, là bài học về tầm quan trọng của thực lực. Bác Hồ dạy: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to, tiếng mới lớn”. Thắng lợi của Hội nghị Paris bắt nguồn từ những thắng lợi trên chiến trường, từ sự lớn mạnh không ngừng về thế và lực của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là sức mạnh của chính nghĩa, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế; sức mạnh từ sự kết hợp tài tình giữa các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; giữa đánh và đàm, giữa chiến trường và bàn đàm phán.

Thứ tư, là bài học về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Để vượt qua những thách thức lớn, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phương cách cực kỳ quan trọng, bảo đảm thắng lợi. Cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta thắng lợi vì đã phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Thứ năm, là bài học về xây dựng lực lượng. Từ Hội nghị Genevơ năm 1954 đến Hội nghị Paris năm 1973, đội ngũ cán bộ ngoại giao đã trưởng thành vượt bậc, được chuẩn bị và trang bị kỹ cả về kiến thức đối ngoại và nghệ thuật đàm phán. Cùng với sự chỉ đạo sát sao, Đảng và Nhà nước ta đã chọn lựa, tin tưởng giao trách nhiệm cho những cán bộ đối ngoại bản lĩnh nhất, xuất sắc nhất tham gia hai đoàn đàm phán, góp phần rất quan trọng làm nên thắng lợi của Hội nghị Paris.

Có thể khẳng định rằng, thắng lợi của Hiệp định Paris thể hiện vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, sự chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Nhân dân ta. Những bài học kinh nghiệm và sự vận dụng sáng tạo việc đàm phán, ký Hiệp định Paris là cơ sở quan trọng để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam và nhiệm vụ đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân nói riêng trong tình hình mới. Khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong mỗi người Việt Nam, nhất là đối với thế hệ trẻ hiện nay. Đấu tranh, phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận kết quả, ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Paris, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của nền ngoại giao Việt Nam trong thời điểm đó và đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay; đồng thời, vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam, chia rẽ gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Những bài học kinh nghiệm đó chính là hành trang quý giá để Việt Nam vững bước tiến vào giai đoạn hội nhập quốc tế, đưa quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, củng cố, nâng cao thế và lực của đất nước. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta về công tác đối ngoại, sau hơn 38 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, để lại những dấu ấn nổi bật: 

Một là, từ phá thế bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Cho đến nay, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với tất cả các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, từ đó, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của quốc tế đối với công cuộc đổi mới của Nhân dân ta. Tính đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 190 trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, trong đó, 03 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như: Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO...

Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Trong đó, Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 Đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Hoạt động đối ngoại của Chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội được đẩy mạnh, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức hữu nghị của Nhân dân cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới.

Hai là, Việt Nam đã tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế - xã hội. Từ một nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung, bị bao vây, cấm vận, đến nay nước ta đã trở thành một nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, liên kết kinh tế sâu rộng; đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó, có 03 FTA thế hệ mới có tiêu chuẩn rất cao, mạng lưới liên kết kinh tế sâu rộng với hầu hết các nền kinh tế quan trọng trên thế giới. Nếu cách đây 30 năm, chúng ta mới có quan hệ kinh tế - thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ thì đến nay đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đến nay tăng gấp khoảng 120 lần so với những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài cũng đã huy động được nguồn lực to lớn của kiều bào để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Các vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để bảo vệ chủ quyền, giữ vững đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, góp phần vào việc củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực. Đối với những vấn đề phức tạp về biên giới lãnh thổ, Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán với các nước liên quan kiểm soát bất đồng, tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Bốn là, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư cách Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, thành viên Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN, chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEM, Hội nghị thượng đỉnh APEC, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN… đã cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc ở châu Phi. Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của nước ta đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhờ đó, vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Về tư tưởng chỉ đạo: Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; sự ủng hộ, giúp đỡ và nguồn lực từ bên ngoài là vô cùng quan trọng.

Về nguyên tắc đối ngoại: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Về phương hướng đối ngoại: Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân; đối ngoại của các cấp, các ngành, các địa phương, các cơ quan, đơn vị, cộng đồng các doanh nghiệp. Đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất, thiết thực; huy động và kết hợp có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Không ngừng đổi mới, sáng tạo trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn bài học “dĩ bất biến ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt về phương pháp, sách lược.

Về nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại: Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Các nhiệm vụ này có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau, trong đó, giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm; nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.

Trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đối ngoại phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp phần xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục quán triệt, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam luôn tin tưởng và kỳ vọng sẽ phát huy tinh thần Hội nghị Paris, công tác đối ngoại nhất định sẽ tiếp tục đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa; ghi tiếp các mốc son mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Từ kinh nghiệm của Hiệp định Paris, Đảng ta luôn khẳng định quan điểm của Việt Nam trong các đàm phán quốc tế, thể hiện vị thế của nước ta ở nhiều lĩnh vực, nhất là chính trị, kinh tế, văn hóa và cả quân sự như: Trong các đàm phán thương mại song phương, có đối tác đưa ra các yêu sách phi lý về nhân quyền, về các vấn đề nội bộ, về nền kinh tế thị trường…; bên cạnh việc kiên trì giải thích, thuyết phục, chúng ta luôn chứng minh bằng các lý lẽ cụ thể về các thành tựu bảo vệ quyền con người ở nước ta, về uy tín của đất nước trên trường quốc tế, về tính hội nhập và đặc điểm thị trường của nền kinh tế, về tự do tín ngưỡng tôn giáo… Điều này đã được Thủ tướng Phạm Minh Chính chia sẻ lập trường đối ngoại nhất quán của Việt Nam tại Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ (CSIS) ngày 11/5/2022: “Trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược và nhiều sự lựa chọn, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, cùng thắng”.

Những kết quả và thành tích đạt được của Việt Nam đã góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau hơn 38 năm đổi mới, như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Có được những kết quả, thành tích đó là do có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, bình tĩnh, tỉnh táo của Đảng; sự điều hành chủ động, linh hoạt của Nhà nước; sự đồng tình, đoàn kết, ủng hộ của toàn thể Nhân dân; sự vào cuộc và hoạt động tích cực của cả hệ thống chính trị, tất cả các ngành, các cấp, mà lực lượng nòng cốt, đóng vai trò quan trọng là Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương và các cơ quan, đơn vị.

Trong năm 2023, chúng ta chứng kiến một số sự kiện quốc tế tích cực. Nổi bật như việc cộng đồng quốc tế đã cơ bản kiểm soát được đại dịch COVID-19 để các quốc gia tập trung phục hồi sự phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 28 Các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP28) họp tại Dubai (UAE) đạt những thỏa thuận, được đánh giá là báo hiệu "bắt đầu sự kết thúc" của kỷ nguyên nhiên liệu hóa thạch - nguyên nhân lớn nhất gây biến đổi khí hậu. Các thành tựu về trí tuệ nhân tạo (AI) đã mở ra những tiềm năng to lớn mới cho sự phát triển của đời sống con người. Đồng thời, như Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Hội nghị giữa nhiệm kỳ cũng như Hội nghị Trung ương 8 vừa qua của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã nhận định, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo và xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức hơn. Cạnh tranh nước lớn vẫn diễn ra gay gắt, toàn diện, thậm chí có cả tính chất đối đầu. Các cuộc xung đột và tình hình căng thẳng gia tăng cả về số lượng, phạm vi địa lý và tác động đối với cả các bên xung đột và quốc tế. Cụ thể, trong khi cuộc cuộc xung đột khốc liệt ở Ukraine còn tiếp diễn thì bùng nổ cuộc xung đột giữa Israel và lực lượng Hamas; tình hình ở Bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan (Trung Quốc), Biển Đông diễn biến phức tạp; bất ổn xảy ra ở nhiều nơi ở châu Phi.

Chạy đua vũ trang được đẩy mạnh trở lại, trong đó có chạy đua vũ trang hạt nhân và trong khoảng không vũ trụ. Trong khi đó, kinh tế thế giới phục hồi chậm, đứng trước nhiều rủi ro cả trong thời gian trước mắt và lâu dài. Những thách thức an ninh phi truyền thống tiếp tục biểu hiện gay gắt như thiên tai nặng nề xảy ra ở một số nước. Tổng thư kýLiên Hợp Quốc Antonio Guterres mở đầu thông điệp nhân dịp năm mới 2024 với đánh giá: "Năm 2023 là năm của nhiều khổ đau, bạo lực và biến đổi khí hậu".

Trong bối cảnh quốc tế rất khó khăn đó, công tác đối ngoại trong năm 2023 đã đạt được kết quả quan trọng, tạo những đột phá mới, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá, công tác đối ngoại, ngoại giao đạt những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, trở thành một điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước qua hơn nửa nhiệm kỳ Đại hội XIII: Đường lối của Đại hội XIII coi trọng phát triển với các nước láng giềng. Trong năm qua, chúng ta tiếp tục tăng cường sự tin cậy chính trị, mở rộng hợp tác, tạo những dấu ấn mới, củng cố vững chắc quan hệ với các nước giềng. Chuyến thăm Việt Nam thành công của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Phu nhân cùng Đoàn Đại biểu Cấp cao Đảng, Nhà nước Trung Quốc (12-13/12/2023) cùng với chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngay sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (30/10-01/11/2022) là những dấu ấn lịch sử trong quan hệ hai Đảng, hai nước. Lào và Campuchia là những nước láng giềng có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, cuộc gặp cấp cao lần thứ hai sau 30 năm giữa ba đồng chí đứng đầu ba Đảng của Việt Nam, Lào, Campuchia (07/9/2023), các cuộc gặp giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, giữa Thủ tướng ba nước và Hội nghị cấp cao đầu tiên của Quốc hội ba nước (05/12/2023) đã khẳng định mạnh mẽ truyền thống đoàn kết đặc biệt, sự gắn bó và giúp đỡ lẫn nhau là một tất yếu khách quan, là quy luật sống còn, nhân tố quan trọng hàng đầu đối với an ninh và phát triển của mỗi nước. Hợp tác kinh tế được xác định là lĩnh vực đột phá và hợp tác quốc phòng - an ninh là trụ cột đều đạt những tiến triển mới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì lễ đón Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình ngày 12/12/2023 tại Hà Nội

Việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác, trong đó, có việc nâng tầm và tạo những đột phá. Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (10-11/9/2023), hai bên thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Theo đó, lần đầu tiên trong lịch sử kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cũng là khi thành lập Liên Hợp Quốc vào năm 1945, Việt Nam là đối tác chiến lược hoặc đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng các quan chức cấp cao hai nước tại hội đàm chính thức ngày 10-11/9/2023 ở Hà Nội

Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ tiếp tục phát triển trong nhiều lĩnh vực, trong đó có chính trị, thương mại, quốc phòng, Ấn Độ xác định Việt Nam là một trong những "đối tác hàng đầu" ở khu vực. Việt Nam và Nhật Bản nâng quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới. Hợp tác với Australia được mở rộng, tiếp tục tạo điều kiện cho việc đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới. Quan hệ với New Zealand và các nước khác ở Nam Thái Bình Dương cũng có những phát triển mới. Việt Nam thúc đẩy quan hệ chính trị và nội dung hợp tác mới trong các lĩnh vực với EU, Anh, các nước giữ vai trò quan trọng trong EU như Đức, Pháp, Italy, đi sâu hợp tác trong các lĩnh vực mà một số nước có thế mạnh như Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Luxembourg, nước bạn bè truyền thống như Bulgaria. Quan hệ với các nước bạn bè truyền thống được quan tâm, thúc đẩy phát triển, đặc biệt là quan hệ với Cuba, việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Bahamas, Trinidad và Tobago, hoàn thành việc thiết lập quan hệ ngoại giao với cả 33 nước Mỹ Latinh. Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước đang thể hiện vai trò mới ở Trung Đông, châu Phi như Iran, Saudi Arabia, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, Tanzania. Nhân chuyến thăm Tòa thánh Vatican của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng vào tháng 7/2023, hai bên công nhận Thỏa thuận về Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú và Văn phòng đại diện thường trú của Tòa thánh ở Việt Nam. Trong tháng 12/2023 vừa qua, Giáo hoàng đã đã bổ nhiệm Đại diện thường trú đầu tiên của Tòa thánh tại Việt Nam.

Các lĩnh vực, công tác quan trọng khác của đối ngoại, ngoại giao được quan tâm thúc đẩy và đạt nhiều kết quả tích cực. Trong đó, ngoại giao kinh tế góp phần chủ động, tích cực vào việc phục hồi phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch, tranh thủ các cơ hội đáp ứng những yêu cầu phát triển mới của đất nước. Việc phát triển quan hệ chính trị để tạo thuận lợi cho hợp tác trong các lĩnh vực. Các vấn đề kinh tế, thương mại, đầu tư, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), khoa học - công nghệ, lao động, bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng của nhà nước, doanh nghiệp, người dân Việt Nam là những nội dung lớn trong trao đổi giữa Việt Nam với các đối tác, đặc biệt trong các trao đổi, chuyến thăm cấp cao. Nhiều thỏa thuận giữa Chính phủ, địa phương, doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác đã được ký kết và thực hiện. Việt Nam tiếp tục là nước đi đầu trong tham gia các khuôn khổ, sáng kiến thương mại, kinh tế, đầu tư đa phương, qua đó mở rộng cơ hội hợp tác kinh tế với nhiều đối tác. 

Ngoại giao đa phương trong quan hệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân góp phần quan trọng vào việc phát huy vai trò của các thể chế và luật pháp quốc tế, củng cố hợp tác để giải quyết các vấn đề chung, thúc đẩy lợi ích của đất nước. Những chủ trương và hoạt động ngoại giao đa phương trong năm qua cũng thể hiện, Việt Nam là thành viên tích cực, trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế như tham gia vào các nỗ lực quốc tế để ứng phó với biến đổi tiêu cực của khí hậu - vấn đề hiện được cộng đồng quốc tế quan tâm hàng đầu. Hay, những đóng góp mới của Việt Nam vào đối ngoại đa phương trong các lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Việt Nam được tín nhiệm bầu đảm nhiệm những vị trí quan trọng mới tại các tổ chức quốc tế.

Công tác thông tin và văn hóa đối ngoại có nhiều đóng góp kịp thời đối với những yêu cầu về đối ngoại; được triển khai chủ động, bài bản với sự phối hợp đồng bộ hơn; nội dung và phương thức có nhiều đổi mới, kết hợp ngày càng hiệu quả với thông tin ở trong nước. Những yêu cầu mới của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã kịp thời được Đảng, Nhà nước quan tâm thúc đẩy ở trong nước và với các đối tác quốc tế.

Những kết quả đối ngoại quan trọng trong năm 2023 cùng những thành tựu được đánh giá là "điểm sáng" trong nửa nhiệm kỳ của Đại hội XIII, đã phát huy mạnh mẽ vai trò của đối ngoại - được Đại hội XIII xác định là tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước, tạo cơ hội chiến lược mới về đối ngoại trong quá trình đổi mới để đất nước ta tăng cường quan hệ và cục diện đối ngoại thuận lợi, tranh thủ thêm điều kiện quan trọng mới theo những yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo các mục tiêu phát triển được Đại hội XIII đề ra. Kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại của Việt Nam còn có nhiều tác động quốc tế, đóng góp vào công việc của cộng đồng quốc tế, củng cố vai trò của các nước ASEAN, các nước đang phát triển; thể hiện ý nghĩa của đường lối độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại trong thế giới ngày nay.

Các hoạt động đối ngoại lớn của Việt Nam được chính giới ở nhiều nước, nhiều cơ quan báo chí và học giả quốc tế có uy tín đánh giá năm 2023 là năm rất thành công của đối ngoại, ngoại giao Việt Nam, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới rất phức tạp hiện nay; đánh giá cao đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, ngoại giao "cây tre Việt Nam" và đi sâu phân tích về đường lối, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới đón lãnh đạo cao nhất của hai cường quốc hàng đầu là Trung Quốc và Hoa Kỳ trong cùng một năm.

Cơ sở cho những thành công của đối ngoại Việt Nam trước hết là cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa bao giờ có được như ngày nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: "Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn". Những thành công đó cũng bắt nguồn từ đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, ngoại giao mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam" và sự lãnh đạo của Đảng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "bất kỳ quốc gia, dân tộc nào trong quá trình hình thành và phát triển của mình cũng đều phải xử lý hai vấn đề cơ bản là đối nội và đối ngoại" và đối ngoại ngày nay "không chỉ là sự nối tiếp của chính sách đối nội mà còn là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của các dân tộc".

Trước tình hình thế giới và trong nước diễn biến phức tạp, khó lường, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, giá năng lượng, khí đốt, nguyên liệu, làm phát gia tăng. Trong bối cảnh đó, việc ôn lại lịch sử, truyền thống là cần thiết, để sống xứng đáng với các thế hệ cha anh, để nói, hành động có trách nhiệm hơn trước Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên nguyện nêu cao ý chí cách mạng, đoàn kết nhất trí, chung sức, chung lòng ra sức phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của người cộng sản, tích cực học tập, nâng cao trình độ mọi mặt, chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình; đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế cần nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra, đưa công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế giành được những thành tựu mới to lớn hơn, toàn diện hơn, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

[1] So với Hiệp định Sơ bộ (06/3/1946), Chính phủ Pháp mới chỉ thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, còn Hiệp định Genève (21/7/1954), mặc dù các nước lớn công nhận đầy đủ các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, nhưng thực tế nước Việt Nam không được thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử, mà bị chia cắt thành hai miền, với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng XHCN, còn ở miền Nam, Mỹ thay thế Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.

[2] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.184-181.

Lê Sơn

Bản in
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

    Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

  • Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

    Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

  • Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

  • Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

    Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

  • Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

  • Hôm nay:   42831
  • Tháng hiện tại:   384517
  • Tổng lượt truy cập:   8016971