Cuộc đời hoạt động cách mạng và những đóng góp của nhà văn hóa, văn nghệ tài hoa thông tuệ, xuất sắc Nguyễn Đình Thi trong sự nghiệp cách mạng là tấm gương cao đẹp cho các thế hệ văn nghệ sĩ hôm nay và mai sau. Đó là tấm gương của một nghệ sĩ xông xáo, lăn lộn, dấn thân vào hiện thực đấu tranh cách mạng, tận hiến tài năng, tâm huyết, phụng sự Tổ quốc...

Nhà văn hóa, văn nghệ Nguyễn Đình Thi (1924-2003)
Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20/12/1924 tại Luang Prabang (Lào), nguyên quán ở làng Vũ Thạch (nay là phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội). Năm 1930, Nguyễn Đình Thi cùng gia đình về quê hương, tại đây, Ông say mê văn chương, âm nhạc, mỹ thuật từ nhỏ; học và tìm hiểu triết học khi còn là học sinh trường Bưởi, sau học ở Trường Đại học Đông Dương. Trong Nguyễn Đình Thi vừa có sự đằm sâu văn hóa Việt, vừa tiếp nhận hài hòa văn hóa Pháp. Hà Nội trong Nguyễn Đình Thi là “Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây. Đây lắng hồn núi sông ngàn năm. Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu… đây Ô Chợ Dừa kia Ô Cầu Dền làn áo xanh nâu Hà Nội tươi thắm… quanh co chen ngang rộn ràng Đồng Xuân, xanh tươi bát ngát Tây Hồ, Hàng Đào ríu rít Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Gai" ("Người Hà Nội", 1947). Văn hóa, triết học, mỹ học của Ông là sự kết nối, hòa đồng Đông Tây, kim cổ, là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Lão Trang, Chúa Je’sus, là Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại, là nữ thần Athena, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... Nguyễn Đình Thi yêu thích văn hóa, văn học Pháp với những tác gia lớn như Hugo, Balzac, Vigny, Baudelaire,... vì trong tác phẩm của họ thấm đẫm triết lý nhân sinh. Nguyễn Đình Thi đề cao triết học Đức với I. Kant, Heghen vì họ tư duy khúc triết, đề cao con người, đề cao thi ca, mỹ học. Năm 18 tuổi, Nguyễn Đình Thi bắt tay viết các tác phẩm “Triết học nhập môn”, “Triết học Kant”, “Triết học Nietzsche”, “Triết học Einstein”, “Triết học Descartes”, “Siêu hình học”,... Một tư duy, một tầm vóc, một sức viết phi thường.
Những năm 1940, Nguyễn Đình Thi tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc, sau đó là Hội Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945, Nguyễn Đình Thi tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II, III và có bài "Diệt phát xít" (năm 1945). Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tiếp tục viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ở những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Ông có bài "Người Hà Nội" (sáng tác 1947). Sau năm 1954, Nguyễn Đình Thi tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật, Ông có bài thơ "Lá đỏ" được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc. Từ năm 1958 đến năm 1989, Nguyễn Đình Thi làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, Nguyễn Đình Thi là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.

PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương phát biểu Đề dẫn Hội thảo
Tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi cho hôm nay” ngày 12/12/2024, PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương nhấn mạnh: Kỷ niệm 100 năm Ngày Nguyễn Đình Thi (20/12/1924-20/12/2024) là dịp để chúng ta cùng nhìn nhận, đánh giá, ngợi ca, tôn vinh di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi. Ông đã có những đóng góp to lớn, đặc sắc cho nền văn hóa, văn nghệ nước nhà trên các lĩnh vực sáng tác và nghiên cứu văn học, sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, lý luận phê bình, triết học, ngoại giao văn hóa. Ông cũng nổi trội, xuất sắc trong vai trò nhà lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ bằng tư duy sắc bén, vốn kiến thức sâu rộng và phương pháp nhuần nhuyễn, lịch lãm, thuyết phục. Theo PGS.TS Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ: Nguyễn Đình Thi là một trong những tên tuổi lớn của văn hóa, văn nghệ Việt Nam hiện đại, thông tuệ, đa tài, xuất sắc ở nhiều lĩnh vực. Trong văn học, Ông là nhà văn có nhiều tìm tòi, đột phá ở thể loại văn xuôi, nhất là tiểu thuyết, góp phần mở ra khuynh hướng sử thi trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông cũng là nhà thơ, nhà biên kịch, người sáng tác âm nhạc có nhiều đổi mới trong tư duy và cách tân nghệ thuật. Các tác phẩm văn xuôi, như “Xung kích”, “Thu Đông năm nay”, “Bên bờ sông Lô”, “Vào lửa”, “Mặt trận trên cao”... thực sự là những dẫn chứng tiêu biểu cho quan niệm sáng tác và ý thức công dân của người nghệ sĩ. Đặc biệt, bộ tiểu thuyết hai tập “Vỡ bờ” đã đưa Nguyễn Đình Thi lên vị thế tiên phong của dòng tiểu thuyết sử thi hào hùng và lãng mạn của nền văn học nước ta giai đoạn 1946-1985.
Di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi để lại cho đất nước thật đồ sộ, phong phú, quý giá. Trong văn học, Nguyễn Đình Thi là nhà văn có nhiều tìm tòi, đột phá ở thể loại văn xuôi, nhất là tiểu thuyết. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ, nhà biên kịch, người sáng tác âm nhạc có nhiều đổi mới trong tư duy và cách tân nghệ thuật. Các tác phẩm văn xuôi, như “Xung kích”, “Thu Đông năm nay”, “Bên bờ sông Lô”, “Vào lửa”, “Mặt trận trên cao”… thực sự là những dẫn chứng tiêu biểu cho quan niệm sáng tác và ý thức công dân của người nghệ sĩ. Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Sống được cuộc sống kháng chiến của dân tộc, hiểu được hướng đi tới của xã hội ta hiện thời, cảm xúc được những cảm xúc mới của kháng chiến; tất cả vấn đề sáng tác quyết định ở điều ấy”. Đặc biệt, bộ tiểu thuyết hai tập “Vỡ bờ” đã đưa Nguyễn Đình Thi lên vị thế tiên phong của dòng tiểu thuyết sử thi hào hùng và lãng mạn của nền văn học nước ta giai đoạn 1946-1985.
Ở thể loại thơ, những tác phẩm bất hủ của ông như “Đất nước”, “Nhớ”, “Bài thơ Hắc Hải”, “Lá đỏ”... là minh chứng sinh động cho tình yêu thương, gắn bó tha thiết với đất nước, con người Việt Nam “vất vả, đau thương tươi thắm vô ngần”, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”... Đó là cá tính sáng tạo mạnh mẽ, bản lĩnh tiên phong, trăn trở tìm tòi hướng đi mới trong thơ Việt Nam hiện đại, nhất là thể thơ tự do. Chính những đổi mới, những tìm tòi thể nghiệm táo bạo này đã khiến thơ ông trở thành đề tài gây sự chú ý, nhất là những cuộc tranh luận có nhiều lúc nảy lửa suốt một thời gian dài. Nguyễn Đình Thi đã tạo ra những khác biệt, những giọng điệu, phong cách riêng của thơ tự do, phóng khoáng, hào sảng, đằm thắm, suy tưởng, ám ảnh. Từ năm 1949, Nguyễn Đình Thi viết bài thơ “Em bảo anh” tặng văn sĩ Pháp Madeleine Riffaud: “Em bảo anh: Nếu chỉ có đôi ta/ Thì có yêu nhau cũng không sống được/ Em bảo anh: Khi chúng ta nằm bên nhau/ Thì bao đồng chí đang nằm hầm sâu/ Em bảo anh: Mỗi vết bùn chúng ta mang trên mặt/ Trong mắt người yêu biến thành nước mắt/ Và mỗi tia lửa vút bay lên cao/ Trong mắt người yêu biến thành trời sao”… Cho đến nay, thế hệ các nhà thơ trẻ Việt Nam đã, đang kế thừa và phát huy những thành tựu và hướng tìm tòi mấy chục năm trước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi.
Về sân khấu, sự xuất hiện bất ngờ của các kịch bản “Con nai đen” (1961), “Hoa và Ngần” (1974), “Giấc mơ” (1977), “Rừng trúc” (1978), “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” (1979), “Người đàn bà hóa đá” (1980), “Tiếng sóng” (1980), “Cái bóng trên tường” (1982), “Trương Chi” (1983), “Hòn cuội” (1986)... trong đó, số phận khá long đong của “Con nai đen”, “Rừng trúc”, “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”, “Cái bóng trên tường”, “Hòn cuội”... đều xuất phát từ tư duy, bản lĩnh, tài năng và sự sáng tạo nghệ thuật, luôn tìm lối mới, cách đi riêng, nói giọng riêng của Nguyễn Đình Thi. Chính những cách tân táo bạo trong hình tượng kịch, sự đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật, triết lý nhân sinh sâu sắc và sự đan cài, hòa quyện nhuần nhuyễn văn hóa Đông-Tây, kim-cổ; truyền thống và hiện đại; kế thừa và tiếp nhận, tiếp biến... được hun đúc từ trái tim, khối óc của một nghệ sĩ tài năng, tâm huyết, chan chứa yêu thương với con người, với cuộc đời, với đất nước, với dân tộc; luôn trăn trở về số phận, niềm vui, nỗi đau và khát vọng tự do, khát vọng sáng tạo nghệ thuật, chấp nhận cả sự ngờ vực, “vượt qua sóng gió” để tồn tại với thời gian của kịch Nguyễn Đình Thi.
Trong lĩnh vực âm nhạc, dù “dừng chân” không lâu và chỉ có 6 ca khúc trong sự nghiệp sáng tác: “Căm hờn”, “Diệt phát xít”, “Du kích quân” (1945), “Người Hà Nội” (1947), “Con voi” (1948), “Đất nước yêu thương” (1977) nhưng Nguyễn Đình Thi vẫn để lại dấu ấn sáng tạo đậm nét, tâm hồn đẹp đẽ, nhân văn của người nghệ sĩ - chiến sĩ. Ông đã hoàn thành xuất sắc vai trò tạo sự kết nối giữa nghệ thuật với cách mạng trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình, cách mạng đang sục sôi. Sinh thời, Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ: “Tôi không dám nhận mình là nhạc sĩ”, tuy nhiên, hai tuyệt phẩm ông sáng tác ở lứa tuổi đôi mươi “Diệt phát xít” và “Người Hà Nội” cũng đủ để tất cả chúng ta tôn vinh ông là một nhạc sĩ lớn, cùng Văn Cao, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, Xuân Oanh, Nguyễn Thành, Nguyễn Văn Thương… mở đường, dẫn lối cho nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Một trong những đóng góp quan trọng của Nguyễn Đình Thi trong lĩnh vực âm nhạc là việc khai phá và phát triển hai thể loại quan trọng - hành khúc và trường ca. Các ca khúc của Nguyễn Đình Thi đã trở thành một phần ký ức lịch sử dân tộc, khơi dậy niềm tự hào đối với quê hương Hà Nội thân thương và đất nước Việt Nam yêu dấu.
Nguyễn Đình Thi đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ với những tác phẩm có giá trị nhiều mặt, sống mãi với thời gian. Thành công trong các sáng tác của ông nổi rõ ở tính tư tưởng, tính nhân văn, nghệ thuật đặc sắc, bút pháp phóng khoáng mà nhuần nhị; ở đó, hòa quyện lòng yêu nước với lý tưởng tưởng cách mạng, tính dân tộc và tính hiện đại, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, nhất là văn hóa Pháp, Nga, châu Âu, khát vọng tự do và bản chất nhân hậu, đằm thắm rất Việt Nam.
Ở trong nước, các tác phẩm của Nguyễn Đình Thi đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa, văn nghệ của Nhân dân ta. Một số tác phẩm thơ, văn, kịch, nhạc của ông được giảng dạy trong các trường học, từ phổ thông đến đại học, trong các sinh hoạt văn hóa ở làng quê hay phố thị, được nhiều giới, nhiều người yêu thích.
Hành trình tiếp nhận và lan tỏa di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi còn vượt ra ngoài biên giới, để lại dấu ấn trong lòng người yêu mến văn nghệ ở nước ngoài, nhất là người Việt xa quê. Một số vở kịch của ông như "Nguyễn Trãi ở Đông Quan" hay "Rừng trúc" không chỉ được trình diễn trong nước mà còn được giới thiệu tại các liên hoan sân khấu quốc tế.
Cùng với sự nghiệp sáng tác văn nghệ, sáng tạo văn hóa, Nguyễn Đình Thi còn là một nhà lãnh đạo văn hóa, văn nghệ tài ba, xuất sắc. Nguyễn Đình Thi tham gia cùng các cơ quan, đơn vị giúp Đảng, Nhà nước xây dựng, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển văn hóa, văn nghệ kháng chiến, kiến quốc. Nhất là trên các cương vị Tổng thư ký Hội Văn hóa Cứu quốc, Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Ông đã thể hiện tầm tư duy, trí tuệ, tầm nhìn chiến lược và khả năng nắm bắt hơi thở đời sống đất nước. Những vị trí công tác mà Nguyễn Đình Thi từng trải qua, mọi người không chỉ khâm phục tài năng, uy tín về chuyên môn của Ông mà còn quý trọng những ý tưởng, góc nhìn từ Ông về xây dựng và phát triển nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến thời kỳ hòa bình, đổi mới.
Nguyễn Đình Thi là người có tư duy sâu sắc và tầm nhìn xa trong lĩnh vực quản lý văn hóa, văn nghệ. Trong vai trò lãnh đạo, quản lý, ông luôn coi trọng sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa sáng tạo và bảo tồn, giữa chuyên nghiệp, tinh hoa và bình dân, đại chúng. Nguyễn Đình Thi quan niệm, để nền văn hóa Việt Nam phát triển bền vững, cần phải dựa trên những giá trị cốt lõi của dân tộc, cần mở rộng giao lưu, học hỏi, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới. Đặt quan điểm của Ông trong bối cảnh đất nước còn đang trong giai đoạn chiến tranh, bị cô lập rất nhiều năm mới thấy rõ tầm chiến lược và tính đột phá trong tư duy của người lãnh đạo văn nghệ xuất sắc Nguyễn Đình Thi. Các tiểu luận lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật của Ông không chỉ là những phân tích học thuật mà còn kết tinh, trong đó, tầm nhìn chiến lược, lý luận gắn kết chặt chẽ với thực tiễn sinh động. Nguyễn Đình Thi không áp đặt quan điểm của mình lên tác giả, tác phẩm mà luôn cố gắng tìm hiểu và tôn trọng cá tính sáng tạo của nghệ sĩ; coi phê bình là người bạn đồng hành, tri âm, tri kỷ của sáng tác.
Nguyễn Đình Thi đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận, phê bình trong việc thẩm định, định hướng, hỗ trợ sáng tạo văn học, nghệ thuật. Các tác phẩm, bài nói của Ông lúc còn rất trẻ, được giới chuyên môn đánh giá cao như tiểu luận “Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao, cổ tích; bài diễn thuyết “Dòng máu Việt Nam chảy trong ca dao” (1944), đặc biệt là tùy bút “Nhận đường” nổi tiếng (Tạp chí Văn nghệ số 1, tháng 3 năm 1948), các bài viết: “Kịch Bắc Sơn”, “Tiếng nói của văn nghệ”, “Mấy ý nghĩ về thơ”, “Trần Đăng”, “Nam Cao”, “Nhà văn viết bằng cái gì”, “Mấy vấn đề văn học (1956), “Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ hiện nay” (1957), “Công việc của người viết tiểu thuyết” (1964)... Nguyễn Đình Thi luôn trăn trở về sứ mệnh của văn hóa, văn nghệ và vai trò, trách nhiệm của văn nghệ sĩ; gợi mở hướng kết nối văn học với chính trị, với thực tiễn xã hội, đề cao vai trò của văn hóa, văn nghệ trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông viết: "Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng cũng chính kháng chiến cũng đem đến cho văn nghệ nguồn cảm hứng và sức mạnh mới". Ông luôn nhấn mạnh: văn học, nghệ thuật phải song hành cùng chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều lĩnh vực khác của đời sống; văn nghệ sĩ cần bám sát những đổi thay của thời đại, đưa “hơi thở” của thời đại vào trong sáng tác của mình. Nguyễn Đình Thi luôn khuyến khích mọi người tạo môi trường tốt nhất cho sáng tạo văn học, nghệ thuật, tôn trọng yêu cầu dân chủ, nhân văn, đổi mới, thể hiện cá tính sáng tạo của người nghệ sỹ trong tác phẩm. Với những bài viết lý luận, phê bình sâu sắc, đằm thắm cùng phong cách lãnh đạo cởi mở, gần gũi, Nguyễn Đình Thi đã trở thành một người bạn, người thầy, người truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ văn nghệ sĩ trẻ. Nguyễn Đình Thi luôn khuyến khích các nghệ sĩ trẻ thử nghiệm và đổi mới, không ngại phá vỡ các khuôn mẫu để tìm kiếm những giá trị mới mẻ hơn.
Di sản quý báu mà Nguyễn Đình Thi để lại cho công tác lãnh đạo, quản lý hoạt động văn hóa, văn nghệ còn là đóng góp của ông trong việc xây dựng và phát triển các tổ chức văn học, nghệ thuật, các thiết chế văn hóa, văn nghệ, điển hình là Hội Nhà văn Việt Nam và Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, nơi ông giữ vai trò lãnh đạo trong nhiều năm liền.
Nguyễn Đình Thi là người có công lao to lớn trong việc thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, giúp giới trí thức, văn nghệ sĩ quốc tế hiểu đúng hơn về đất nước, con người Việt Nam, từ đó, có thái độ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của Việt Nam. Ngoài mục tiêu trên, trong vai trò của người lãnh đạo văn nghệ, hơn ai hết, Nguyễn Đình Thi hiểu sâu sắc rằng việc học hỏi và giao lưu với các nền văn hóa khác sẽ giúp văn học, nghệ thuật Việt Nam phát triển phong phú hơn, mạnh mẽ hơn, từng bước xác lập vị thế của văn hóa, văn nghệ Việt Nam trên trường quốc tế. Bằng tài năng và cống hiến xuất sắc của Nguyễn Đình Thi cho nền văn hóa, văn nghệ nước nhà trên cả hai lĩnh vực sáng tác và lãnh đạo, quản lý, Nguyễn Đình Thi đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Quang cảnh Hội thảo khoa học toàn quốc “Di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi cho hôm nay”
Tại Hội thảo khoa học “Di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi cho hôm nay”, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa khẳng định: Nguyễn Đình Thi là một trong những tên tuổi lớn của nền văn học, nghệ thuật Việt Nam - Nhà hoạt động văn hóa xuất sắc, nghệ sĩ tài hoa, với những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, nghệ thuật nước nhà. Cũng như bao thế hệ văn nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi đã sớm dùng ngòi bút của mình làm vũ khí chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với lòng yêu nước thiết tha và lý tưởng sống cao đẹp, Nguyễn Đình Thi tích cực tham gia Hội Văn hoá cứu quốc từ năm 1943, trực tiếp phụ trách báo Độc lập. Ông là nhà lãnh đạo văn nghệ xuất sắc, đầy tài năng và tâm huyết, được cử làm Tổng Thư ký Hội Văn hóa cứu quốc tháng 9/1945 và trong gần 60 năm, Ông đã đảm nhận trọng trách lãnh đạo nhiều cơ quan văn hóa văn nghệ của đất nước, là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2003. Đồng chí nhấn mạnh: “Với tài năng sáng tạo xuất sắc, với lòng yêu nước thiết tha và tư tưởng cách mạng vững vàng, Nguyễn Đình Thi đã để lại cho chúng ta một di sản văn hóa, văn nghệ to lớn, phong phú, có sức sống lâu bền. Cuộc đời hoạt động cách mạng và sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi là tấm gương cao đẹp cho các thế hệ văn nghệ sĩ hôm nay và mai sau. Đó là tấm gương của một nghệ sĩ xông xáo, lăn lộn trong hiện thực đấu tranh cách mạng, nguyện tận hiến tài năng, tâm huyết của mình, phụng sự Tổ quốc, Nhân dân và sự nghiệp vẻ vang của Đảng”.

Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, UVBCT, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi cho hôm nay”
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa - UVBCT, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương mong muốn đội ngũ văn nghệ sĩ nước nhà sẽ không ngừng học hỏi, đúc rút những bài học quý báu từ các thế hệ đi trước để tiếp tục dấn thân, vững vàng và không ngừng phát triển trên hành trình sáng tạo. Từ cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Thi, có thể rút ra bài học lớn đối với hoạt động sáng tạo nghệ thuật: Thứ nhất, chỉ khi nào nghệ sĩ gắn bó máu thịt với quê hương, đất nước; sáng tạo dưới ánh sáng của lý tưởng cao đẹp; hướng tới mục tiêu cao cả là phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc thì tác phẩm của họ mới thực sự có giá trị cao, có sức lan tỏa sâu rộng và bền vững trong lòng công chúng. Thứ hai, mục đích cuối cùng của nghệ sĩ chân chính là có được những tác phẩm hay, những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, phản ánh tâm hồn và tính cách dân tộc, những điều lớn lao, mạnh mẽ của con người và dự báo cho cả tương lai... Đồng thời đề nghị: Các nhà khoa học, văn nghệ sĩ và các cơ quan liên quan tiếp tục tập trung nghiên cứu, khẳng định, tôn vinh những đóng góp quan trọng của Nguyễn Đình Thi đối với nền văn học, nghệ thuật cách mạng nước nhà; đẩy mạnh công tác lưu giữ và quảng bá, tuyên truyền rộng rãi những tác phẩm của Nguyễn Đình Thi đến với đông đảo công chúng trong và ngoài nước. Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về văn hóa, văn học, nghệ thuật trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; luôn cổ vũ, khích lệ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật; làm tốt hơn nữa công tác chính trị tư tưởng đối với các văn nghệ sĩ để anh chị em nhận thức sâu sắc hơn nữa về sứ mệnh vẻ vang của mình đối với Tổ quốc, với nhân dân; đoàn kết, đóng góp tài năng, trí tuệ vào sự phát triển nền văn hóa, văn học, nghệ thuật cao quý của nước nhà; phấn đấu sáng tạo nhiều hơn nữa những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; đồng cảm sâu sắc với cuộc sống của Nhân dân, đồng hành với Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam...
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Nguyễn Đình Thi là dịp để các thế hệ hôm nay và mai sau tôn vinh, ghi nhớ, bảo tồn “Di sản văn hóa, văn nghệ” mà nhà văn hóa lớn, nghệ sĩ đầy tài năng Nguyễn Đình Thi đã dành chọn cuộc đời cống hiến. Di sản của Nguyễn Đình Thi trở thành tài sản quý giá, là biểu tượng của danh nhân văn hóa Việt Nam cần được lan tỏa giá trị di sản văn hóa tốt đẹp ở trong và ngoài nước, góp phần "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
Lê Sơn