Bối cảnh lịch sử:
Cuối tháng 3/1975, quân ta liên tiếp giành thắng lợi to lớn trong các chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tiêu biểu là quân ta tiến công và giải phóng Buôn Ma Thuột (10/3), hoàn toàn Tây Nguyên và Tam Kỳ (24/3), Quảng Ngãi (25/3), Huế và Chu Lai (26/3), Đà Nẵng (29/3),… Sáng 30/3/1975, ở Bình Định, Sư đoàn 3, Quân khu 5 tiếp tục tiến công các cụm quân địch còn lại ở Lai Nghi, Phú Xuân, Phú Hòa 2 và chốt chặn đường rút của địch về Quy Nhơn. Đêm cùng ngày, Trung đoàn 2 (thiếu) của Sư đoàn 3, bí mật vượt qua tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch ở Bình Định, tổ chức tuyến chốt chặn ở Diêu Trì, bịt kín mọi đường tháo chạy của Sư đoàn 22 Việt Nam cộng hòa. Phối hợp với Sư đoàn 3, các chiến sĩ Trung đoàn 19 - Sư đoàn 968 đánh chiếm núi Trà Lam Sơn (Tây Gò Quánh) diệt Trung đoàn 3, Trung đoàn 49 Việt Nam cộng hòa. Các chiến sĩ Trung đoàn 95A đánh địch ở Phú Phong, lăng Mai Xuân Thưởng. Tại Đèo Phượng Hoàng (Đắk Lắk), mờ sáng 30/3/1975, các lực lượng của Sư đoàn 10 tiếp tục tiến công trên các hướng vào các đơn vị của Lữ đoàn dù 3 Việt Nam cộng hòa. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Sau một ngày giao tranh, Lữ đoàn dù 3 đã bị loại khỏi vòng chiến đấu 02 tiểu đoàn bộ binh và một phần ba trọng pháo, xe thiết giáp. Đêm cùng ngày, lữ đoàn trưởng xin cấp trên rút chạy để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn.
Đứng trước thời cơ chiến lược lớn với điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị, tháng 10/1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thảo luận kế hoạch chiến lược giải phóng miền nam (Ảnh tư liệu)
Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn:
Trong bối cảnh lịch sử đó, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và xác định: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc”. Bộ Chính trị quyết định nắm vững hơn nữa thời cơ chiến lược, với tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, có quyết tâm lớn thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể để chậm. Cùng ngày, tại Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Thế Bôn - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 1 - nhiệm vụ tổ chức hành quân gấp vào miền Đông Nam Bộ hiệp đồng với các đơn vị bạn tham gia chiến dịch Giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Trong vòng 16 ngày, Quân đoàn phải tổ chức các lực lượng hành quân vào tập kết tại Đồng Xoài. 11 giờ, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị điện chỉ thị đồng chí Văn Tiến Dũng vào Nam bộ sớm gặp đồng chí Phạm Hùng để bàn ngay kế hoạch đánh chiếm Sài Gòn, do “tình hình biến chuyển nhanh, cần tranh thủ thời gian hành động khẩn trương”.
Xe thiết giáp quân Giải phóng trên đường hành quân vào Quy Nhơn (Ảnh tư liệu)
Những thắng lợi tiêu biểu của quân dân ta ngày 31/3/1975, tạo thế và lực để quân ta tiến về giải phóng Sài Gòn, hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
Tại Bình Định, 05 giờ 15 phút, ngày 31/3/1975, trận công kích toàn diện của ta vào toàn bộ tuyến phòng thủ của địch ở đây cùng lúc diễn ra. Các trung đoàn 12 và 141 Sư đoàn 3 đánh cụm quân địch. Trung đoàn 95A đánh vào cụm quân của Trung đoàn 41 Việt Nam Cộng hòa từ Núi Một đến cầu Phú Phong. Sư đoàn 968 tiếp tục tiến công địch ở núi Trà Lam Sơn. Một mũi của Sư đoàn 968 thọc sâu đánh chiếm và giải phóng thị xã Đập Đá, cắt Đường số 1. Cùng thời gian, Thị ủy Quy Nhơn (này là Thành ủy Quy Nhơn) phối hợp với Trung đoàn 93 bộ đội tỉnh bí mật vu hồi vào phía nam thị xã, bất ngờ đánh chiếm khu 5, núi Một, cầu Đôi, cầu Sông Ngang, khống chế hậu cứ Sư đoàn 22 Việt Nam Cộng hòa, sân bay địch. Pháo binh ta đặt trên Núi Một chi viện cho đơn vị Đặc công nước 598 chiếm Mũi Tấn, quân cảng Quy Nhơn. Phối hợp với bộ đội, các đoàn thể huy động hơn 11.000 quần chúng chiếm dinh Tỉnh trưởng, nhà lao, Ty Công an... 20 giờ, ngày 31/3/1975, đội biệt động Quy Nhơn phối hợp với Tiểu đoàn 50, đặc công Đ30 và Đ20 đánh chiếm, cắm cờ trên tiền sảnh Tòa hành chính ngụy quyền tỉnh và Trung tâm Tiểu khu Bình Định. Thị xã Quy Nhơn và tỉnh Bình Định được giải phóng.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng tỉnh Bình Định (31/3/1975-31/3/2025), sáng 30/3, tại Tượng đài Chiến thắng Núi Bà (khu phố Trung Lương, thị trấn Cát Tiến, huyện Phù Cát), đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, UVBCT, BTTW Đảng, Trưởng ban Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương dẫn đầu đoàn đại biểu Trung ương thực hiện nghi thức dâng hoa, dâng hương tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ. Tham dự buổi lễ còn có các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành Trung ương, lãnh đạo tỉnh Bình Định và đông đảo cán bộ, chiến sĩ, Nhân dân địa phương.
Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương (từ trái đứng thứ 6, hàng trên cùng), cùng đoàn lãnh đạo Trung ương, địa phương chụp hình lưu niệm tại Tượng đài Chiến thắng Núi Bà (huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) vào ngày 30/3/2025
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân và dân ta giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dân Bình Định tự hào đã góp phần vào thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Tượng đài Chiến thắng Núi Bà là biểu tượng hào hùng của quân và dân Bình Định trong suốt 21 năm đấu tranh gian khổ. Đây từng là căn cứ quan trọng, nơi nuôi dưỡng và che chở lực lượng cách mạng từ những ngày đầu cho đến khi đất nước hoàn toàn thống nhất. Mỗi con suối, mỗi hang đá tại Núi Bà đều ghi dấu chiến công oanh liệt, lòng dũng cảm và sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân tỉnh Bình Định.
Tại Phú Yên, ngày 31/3/1975, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 tiến công cứ điểm Hòn Một; Tiểu đoàn 8 đánh chiếm đoạn Đường 1 từ Phú Khê đến cầu ván Hòa Xuân. Ở Bắc Phú Yên, lực lượng địa phương đánh chiếm cầu Ngân Sơn, cắt Quốc lộ 1 ở phía nam Tuy An, không cho địch dồn rút về thị xã, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực tiến công thị xã Tuy Hòa. Cùng ngày, Trung đoàn 48 và Trung đoàn 9 khẩn trương triển khai lực lượng tiến công địch ở thị xã Tuy Hòa (nay là thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên).
Quân giải phóng tiến công, khống chế được sân bay Hòa Bình, làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột (năm 1975) (Ảnh TL)
Tại Đắk Lắk, ngày 31/3/1975, chiến sự tại đèo Phượng Hoàng tiếp diễn ác liệt. Được tin địch có ý định rút lui, chỉ huy Sư đoàn 10 điều lực lượng chiếm vị trí có lợi đoạn phía đông đèo chặn địch. Địch tập trung pháo binh, máy bay ném bom dữ dội, bộ binh địch liều chết xông lên. Suốt đêm 31/3/1975, máy bay C130 thay nhau thả pháo sáng, bắn phá dọc đường 21, pháo địch từ căn cứ Lam Sơn, Dục Mỹ bắn phá mạnh vào trận địa ta để trấn an quân còn lại. Tại Khánh Hòa, chiều cùng ngày, ở Ninh Hòa đội vũ trang công tác xã Ninh Diêm huy động quần chúng nổi dậy giải phóng xã rồi cùng lực lượng quần chúng giải phóng toàn bộ khu vực Hòn Khói. Trong đêm 31/3/1975, công chức và sĩ quan ở Nha Trang tự động di tản, quân lính ở trường hạ sĩ quan Đồng Đế cũng tháo chạy.
Tại Bình Long (nay thuộc tỉnh Bình Phước), 05 giờ, ngày 31/3/1975, Sư đoàn 9 - Quân đoàn 4 nổ súng tiến công chi khu Chơn Thành. Đến 10 giờ cùng ngày, Tiểu đoàn 7 và hai xe tăng ta chiếm được chốt bảo an. Đến 14 giờ, địch điều Chiến đoàn 315 từ Bầu Bàng lên chi viện cho Chơn Thành. Sư đoàn 9 nhận được lệnh chuyển sang đánh địch chi viện. Trên chiến trường Khu 6, sáng 31/3/1975, Trung đoàn 812 có xe tăng yểm trợ đánh tan cuộc phản kích của địch ở Chi khu Di Linh. Trong khi đó, ở Tuyên Đức, đêm cùng ngày, địch bỏ thành phố Đà Lạt chạy về Phan Rang, phá sập cầu Đại Ninh trên Đường 20 để làm chậm bước tiến của bộ đội chủ lực ta lên Đà Lạt.
Tại miền Đông Nam bộ, đến cuối tháng 3/1975, ta đã mở được một vùng giải phóng rộng lớn kề cạnh Sài Gòn, kéo dài từ Bắc Tây Ninh, qua Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Chơn Thành; từ Mỏ Vẹt đến La Ngà qua Hoài Đức, Tánh Linh; từ Đường số 1 đến nam Đường số 2, Bà Rịa. Tại Quân khu 9, ngày 31/3/1975, Trung đoàn 1 diệt phân chi khu Ba Kè, giải phóng xã Hậu Lộc, làm chủ đoạn sông Măng Thít dài 4km, cắt đứt đường giao thông vận chuyển của địch trên sông này. Cùng thời gian này, Trung đoàn 3 Quân khu 9 tiêu diệt 04 đoàn bình định của địch ở xã Hòa Bình (Tam Bình), uy hiếp Chi khu Tam Bình về phía tây; Trung đoàn 20 Quân khu diệt một đại đội của Tiểu đoàn bảo an 407, đánh thiệt hại nặng yếu khu Thới Lai.
Ý nghĩa và bài học từ việc chọn thời điểm ra quyết định của Bộ Chính trị:
Qua gần một tháng tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, ta đã tiêu diệt và làm tan rã hai quân khu quân đoàn mạnh của địch, thu và phá hủy nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật của chúng, giải phóng các tỉnh đồng bằng miền trung và Tây Nguyên cùng nhiều vùng ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, hình thành thế hợp vây Sài Gòn - Gia Định từ nhiều hướng, tạo thế và lực để mở chiến dịch Hồ Chí Minh, kết thúc chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chiến công hiển hách đã làm kinh ngạc cả thế giới.
Nhìn lại thắng lợi vang dội của 50 năm về trước, chúng ta càng nhận thức rõ ràng hơn về nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh tài tình, sáng tạo của tập thể Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi khác của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1951-1976), vượt qua mọi hoạch định, toan tính chiến tranh xâm lược của đối phương. Quá trình chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị trong giai đoạn kết thúc chiến tranh ấy đã để lại những bài học lịch sử lớn, quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, như: kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới; bám sát thực tiễn, nhận diện nắm bắt đúng thời cơ, phát huy sức mạnh nội lực, kết hợp với tranh thủ những điều kiện khách quan thuận lợi để vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản đề ra; tăng cường giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách vì lợi ích quốc gia, dân tộc; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt...
Lê Sơn