Trải qua 70 năm phát triển (07/5/1955-07/5/2025), Quân chủng Hải quân trở thành quân chủng hiện đại với đầy đủ thành phần lực lượng, phương tiện tàu thuyền, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên biển, quản lý và bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Hải quân nhân dân Việt Nam
Thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam:
Năm 1954, miền Bắc được giải phóng, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhằm góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo, quản lý chặt chẽ bờ biển miền Bắc, ngày 07/5/1955, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 284/NĐ-A thành lập Cục Phòng thủ bờ bể, tiền quân của Quân chủng Hải quân sau này. Tiếp đó, trên cơ sở quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 15 khóa II xây dựng quân đội, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng, ngày 24/01/1959, Bộ Quốc phòng ra Nghị định số 320/NĐ thành lập Cục Hải quân. Đây là bước chuyển biến quan trọng, chuyển từ nhiệm vụ nghiên cứu sang chỉ huy, chỉ đạo mọi mặt hoạt động xây dựng, sẵn sàng chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn quân viễn chinh Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc, để bảo đảm cho Hải quân nhân dân Việt Nam thực hiện tốt nhiệm vụ chi viện cho miền Nam và sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của Mỹ đối với miền Bắc, ngày 03/01/1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định 01/QP thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân trên cơ sở Cục Hải quân. Từ đây, Hải quân nhân dân Việt Nam chính thức trở thành một quân chủng độc lập, bộ phận hợp thành quan trọng của quân đội nhân dân Việt Nam, giữ vai trò nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông, biển và là mốc son lịch sử quan trọng của Hải quân nhân dân Việt Nam trên con đường xây dựng và phát triển.
Những Chiến sĩ Hải quân trên những con tàu không số:
Ngày 23/10/1961, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam đã thành lập Đoàn 759 (tiền thân của Lữ đoàn 125, Vùng 2 Hải quân ngày nay) với tên gọi Đoàn tàu không số để thực hiện nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, phương tiện và cán bộ, chiến sĩ bằng đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong 14 năm, từ năm 1961-1975 có hơn 1.800 lượt tàu, thuyền được huy động, vượt quãng đường hơn 4 triệu hải lý, gấp 185 lần vòng quanh trái đất, vận chuyển hơn 150 nghìn tấn vũ khí, trang bị và hơn 80 nghìn cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam. Những chuyến hải trình sinh tử, dù phải đối mặt với hai lần chết, chết do bão tố hoặc chết do máy bay trên trời hoặc các loại tàu trên biển. Tuy nhiên, cán bộ chiến sĩ Hải quân luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, dù bị địch bắt, bị tù đày nhưng họ luôn sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Mỗi khẩu súng, mỗi viên đạn được đưa vào chiến trường đều thấm đẫm máu xương của đồng bào, chiến sĩ; họ đã chiến đấu cho dù bị thương, bị địch bắt, địch đè ra mổ bụng, moi gan họ vẫn kiên quyết không khai, bảo vệ bí mật của những con tàu không số.
Có thể nói, đường Hồ Chí Minh trên biển là một trong những phát kiến xuất sắc của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với tinh thần chủ động, sáng tạo, mưu trí, dũng cảm “vạch đường mà đi”, “tìm bến mà đến”, những con tàu không số đã vận chuyển, chi viện vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng làm niên chiến thắng, viết lên thiên hùng ca bất tử.
Những con "tàu không số” của Hải quân nhân dân Việt Nam đã xuyên qua bão dông, vượt qua bao cuộc vây ráp của kẻ thù, chuyên chở hàng vạn tấn vũ khí, trang thiết bị và hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào chi viện cho chiến trường lớn miền Nam,
tạo nên huyền thoại “đường mòn Hồ Chí Minh” trên Biển Đông (Ảnh tư liệu)
Chiến sĩ Hải quân đã lập nên những chiến thắng vang dội:
Với ý chí quyết tâm dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng, Hải quân nhân dân Việt Nam còn đánh đuổi tàu khu trục Maddox của Mỹ khi chúng cố tình xâm phạm hải phận. Kết quả, tàu Maddox bị trúng đạn 14,5mm vào mạn, làm một số thiết bị trên boong tàu hư hỏng buộc phải rút xa khỏi vùng biển Bắc Việt Nam 12 hải lý. Trận đánh tàu Maddox là trận chiến đấu đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam trong tình huống chiến đấu độc lập trực tiếp đối đầu với tàu khu trục và máy bay Mỹ, với số lượng tàu ít và nhỏ bé, còn nhiều hạn chế về tính năng kỹ thuật và trang bị, hoạt động. Trận đánh thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, dũng cảm và mưu trí của bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, lực lượng Hải quân còn phối hợp chặt chẽ với lực lượng phòng không của Quân chủng Phòng không - Không quân và nhân dân miền Bắc đánh trả kiên cường, làm thất bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân quy mô lớn vào miền Bắc Việt Nam của đế quốc Mỹ.
Tàu khu trục Maddox của Mỹ xâm phạm vùng biển của Việt Nam ngày 02/8/1964 đã bị Hải quân nhân dân Việt Nam đánh đuổi (Ảnh tư liệu)
Khi đế quốc Mỹ mở rộng leo thang chiến tranh phá hoại và phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường, Hải quân nhân dân Việt Nam cùng với quân và dân miền Bắc đã vượt qua chính mình, 02 lần vào năm 1967-1968 và năm 1972-1973 đánh thắng chiến tranh phá hoại và phong tỏa của địch, góp phần đánh bại âm mưu bóp nghẹt cách mạng miền Nam của đế quốc Mỹ. Thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, Hải quân nhân dân Việt Nam đã phối hợp với một bộ phận lực lượng vũ trang Quân khu 5 “Thần tốc, táo bạo, bí mật, bất ngờ” tiến công giải phóng các đảo thuộc Quần đảo Trường Sa, góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân 1975. Trong trận đánh ấy, chiến sĩ hải quân Ngô Văn Quyền và Tống Văn Quang hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ và chỉ còn ít ngày nữa là miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam năm 1979, thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng và nhiệm vụ Bộ Quốc phòng giao, Hải quân nhân dân Việt Nam đã tổ chức chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tây Nam Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Có thể nói, đường Hồ Chí Minh trên biển đã để lại nhiều bài học quý còn nguyên giá trị trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Tinh thần, khí thế sẵn sàng hy sinh để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao của cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số được các thế hệ sau tiếp nối, trở thành truyền thống vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt Nam. “Cán bộ, chiến sĩ quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách; tích cực, chủ động trong huấn luyện, làm chủ vũ khí trang bị mới, hiện đại; rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm, tinh thần “yêu biển, yêu đảo, yêu nhà giàn và những con tàu”, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với Nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc”. 70 năm qua, Hải quân nhân dân Việt Nam từng bước lớn mạnh, phát triển, trưởng thành, giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống “bộ đội Cụ Hồ”, “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến quyết thắng”, lập nên những chiến công vang dội, đi vào lịch sử như những biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền biển quốc gia:
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Hải quân nhân dân Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng Quân chủng theo hướng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, luôn là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trên biển; Thực hiện quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Tổ quốc.
Việc phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền biển quốc gia là chủ trương chiến lược nhất quán của Đảng ta, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó có Hải quân nhân dân Việt Nam. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Quân chủng Hải quân phải cùng các lực lượng trong toàn quân tiếp tục thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển; đồng thời tích cực tham gia phát triển kinh tế kết hợp quốc phòng trên hướng biển trong những lĩnh vực, ngành nghề có tiềm năng, thế mạnh, để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Việt Nam là quốc gia biển, với vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, cùng hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ và bờ biển dài hơn 3.260km. Biển đảo Việt Nam là bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế; giữ vị trí chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh (QP-AN); gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Biển đảo nước ta rất giàu tài nguyên, tạo ra điều kiện rất thuận lợi và tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển, mang lại giá trị cao như: Vận tải biển, du lịch, dầu khí, khai khoáng, nuôi trồng và khai thác hải sản, năng lượng tái tạo… Các vùng biển nước ta, đặc biệt là 02 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa được ví như những “chiến lũy thiên nhiên”, làm tăng thêm chiều sâu phòng thủ, giúp tạo khoảng không gian cần thiết để kiểm soát việc tiếp cận lãnh thổ trên đất liền.
Quản lý, khai thác tiềm năng của biển đi đôi với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển quốc gia, làm cho đất nước phát triển giàu mạnh, là quan điểm cơ bản, chủ trương chiến lược nhất quán của Đảng ta. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế, tạo dựng cơ sở chính trị và hành lang pháp lý để thúc đẩy phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm QP-AN trên biển. Đặc biệt, Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Đảng về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định quan điểm: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm QP-AN, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển”.
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) “về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đề ra những mục tiêu và giải pháp cụ thể phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Về kinh tế biển, đến năm 2030 các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65-70% GDP; phát triển bền vững kinh tế biển theo chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên trong khả năng phục hồi hệ sinh thái biển. Về QP-AN, nghị quyết xác định xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ theo hướng hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển; không ngừng củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; bảo đảm năng lực xử lý tốt các tình huống trên biển, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, sự nghiệp phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền biển quốc gia đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, Nhân dân về tầm quan trọng của biển đảo, về phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo từng bước nâng cao. Các ngành kinh tế biển phát triển nhanh chóng, đóng góp lớn vào nền kinh tế và trở thành động lực quan trọng phát triển đất nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân vùng biển đảo không ngừng cải thiện. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường biển; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực biển được chú trọng, tạo việc làm ổn định, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành nghề theo hướng công nghiệp, hiện đại, bền vững. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế biển với bảo đảm QP-AN ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, từ nghiên cứu hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, đến đầu tư, xây dựng, phát triển sản xuất, kinh doanh. Các lực lượng quản lý, bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Kiểm ngư…) được đầu tư xây dựng, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” trên biển được củng cố, tăng cường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền biển quốc gia là chủ trương chiến lược nhất quán của Đảng ta, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó có Hải quân nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, phát triển kinh tế biển, bảo đảm chủ quyền biển quốc gia vẫn còn những hạn chế, khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế, khu vực và Biển Đông diễn biến phức tạp, khó đoán định; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định. Ở trong nước, sự phối hợp, thống nhất nhận thức và hành động về vấn đề biển đảo của một bộ phận chưa cao. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến biển đảo để chống phá. Quá trình phát triển vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, lợi thế của biển đảo; nước ta chưa thực sự trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển. Việc hoạch định và thực hiện các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch có thời điểm, có lĩnh vực chưa gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế với QP-AN, chưa tích hợp, tối ưu hóa các nguồn lực đầu tư, phát huy sức mạnh và sự bổ trợ cho nhau giữa các ngành, vùng kinh tế biển. Đầu tư phát triển có nơi còn dàn trải, thiếu đồng bộ, hiệu quả, liên thông giữa các bộ, ngành và các vùng, khu vực, địa phương; chưa thu hút đầu tư phát triển mạnh các ngành công nghiệp biển công nghệ cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Các lực lượng quản lý, bảo vệ biển còn hạn chế về trang thiết bị, phương tiện, khó duy trì sự hiện diện thường xuyên, liên tục trên toàn bộ vùng biển rộng lớn; cơ chế phối hợp, chỉ đạo, điều hành các lực lượng còn những bất cập nhất định...
Bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, sự nghiệp phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm vững chắc chủ quyền biển quốc gia đang đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi, song cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức đan xen. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn kỷ nguyên mới, với 2 mục tiêu 100 năm của đất nước, đó là: Năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển có thu nhập cao.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường QPAN; giữa khai thác tiềm năng, thế mạnh của biển với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia; giữa xây dựng sức mạnh, năng lực khai thác biển với sức mạnh, khả năng bảo vệ biển. “Thực túc binh cường”, kinh tế biển phát triển mạnh sẽ tạo thế và lực, tạo ra điều kiện vật chất thuận lợi để tăng cường QPAN bảo vệ biển đảo vững chắc, thống nhất, toàn vẹn. Ngược lại, QPAN được củng cố vững chắc mới bảo vệ được biển đảo, mới giữ được hòa bình, ổn định, tạo ra môi trường, không gian, điều kiện thuận lợi, an toàn cho các ngành kinh tế biển phát triển một cách hiệu quả và bền vững.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, bảo đảm chủ quyền biển quốc gia, phải tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Chú trọng thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đảo; về phát triển kinh tế biển bền vững và mối quan hệ với bảo đảm QPAN, chủ quyền biển quốc gia trong tình hình mới. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch tổng thể kết hợp giữa phát triển kinh tế với QPAN vùng biển và ven biển. Thu hút nguồn lực phát triển những ngành kinh tế nền tảng, mũi nhọn, hình thành các khu kinh tế, khu công nghiệp và đô thị ven biển hiện đại. Phát triển dựa trên nền tảng kinh tế biển xanh, “kinh tế tuần hoàn”, gắn với bảo tồn hệ sinh thái biển, bảo vệ tài nguyên môi trường. Nghiên cứu, ứng dụng, phát triển khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao về biển; nghiên cứu, điều tra cơ bản tài nguyên, dự báo, cảnh báo thiên tai, quan trắc, giám sát môi trường biển, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân trên biển vững mạnh, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam làm nòng cốt. Xây dựng cơ sở hạ tầng biển đảo hiện đại, đồng bộ, lưỡng dụng, vừa bảo đảm nhiệm vụ QPAN, vừa phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”, phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và phát triển bền vững kinh tế biển trong kỷ nguyên mới.
Vai trò của Hải quân nhân dân Việt Nam:
Hải quân nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 07/5/1955. Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, Quân chủng Hải quân đã lập rất nhiều chiến công xuất sắc, đặc biệt xuất sắc: Đánh thắng trận đầu ngày 02/8 và 05/8/1964; cùng quân dân miền bắc hai lần đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; làm nòng cốt, đi đầu chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông biển miền bắc; mở Đường Hồ Chí Minh trên biển vận chuyển chi viện miền Nam; xây dựng lực lượng đặc công nước chiến đấu ở Cửa Việt - Đông Hà; tham gia Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, giải phóng quần đảo Trường Sa; hoàn thành nhiệm vụ quốc tế với nước bạn Lào, Campuchia; xây dựng Quân chủng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển để đất nước phát triển.
Cùng với hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, Quân chủng Hải quân luôn tích cực tham gia sản xuất, làm kinh tế. Đây cũng là một trong những bài học sâu sắc để Quân chủng không ngừng phát triển và trưởng thành, làm tròn chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Đặc biệt, là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển đảo, bộ đội Hải quân thường xuyên hoạt động trên biển, có kiến thức am hiểu về biển, được trang bị những phương tiện kỹ thuật chuyên dụng, biết phát huy tiềm năng, thế mạnh trong thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển quốc gia.
Ngay trong thời kỳ chiến tranh, bộ đội Hải quân đã phát huy tinh thần tự lực tự cường, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, tranh thủ tăng gia, lao động sản xuất, cải thiện đời sống, tạo nguồn lực sửa chữa vũ khí trang bị, bổ sung phương tiện. Khi đất nước hòa bình thống nhất, Quân chủng Hải quân có điều kiện thuận lợi để tham gia hiệu quả hơn vào nhiệm vụ phát triển kinh tế quốc phòng biển, đảo. Thực chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về kết hợp kinh tế với quốc phòng, ngay từ năm 1976, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng đã ban hành Nghị quyết 431/ĐU về tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, trong đó xác định: “Phương hướng chính của Hải quân tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là hướng biển, lấy phát triển đánh cá, khai thác hải sản là trọng tâm, tham gia thăm dò khai thác dầu khí vận tải là quan trọng, đồng thời đẩy mạnh khả năng làm công nghiệp của các xí nghiệp, tích cực tham gia xây dựng cơ bản, tận dụng điều kiện và kết hợp mọi khả năng để đẩy mạnh sản xuất, chăn nuôi”. Đồng thời, căn cứ vào nhiệm vụ xây dựng kinh tế Chính phủ giao cho Quân đội, Quân chủng đã tổ chức ra Cục Xây dựng kinh tế để giúp tham mưu, chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế biển. Sự ra đời của Cục Xây dựng kinh tế đánh dấu bước phát triển mới về thành phần lực lượng của Quân chủng Hải quân, cụ thể hóa đường lối lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới về tư duy kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Từ khi được Chính phủ, Quân đội giao nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế (1976) đến nay, Quân chủng Hải quân luôn xác định tham gia lao động sản xuất là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, không tách rời nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Quân chủng thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; chỉ đạo các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế quốc phòng phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, đổi mới sáng tạo, khai thác mọi nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh, sản xuất kinh doanh có chất lượng, hiệu quả, gắn chặt với nhiệm vụ quân sự quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo và nguồn tài nguyên của đất nước. Tích cực xây dựng và phát triển một số loại hình sản xuất, làm kinh tế có hiệu quả, mang tính tiên phong, lưỡng dụng, gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển đảo.
Quân chủng xây dựng được một số doanh nghiệp, đơn vị làm kinh tế quốc phòng mạnh trong các lĩnh vực: dịch vụ khai thác cảng biển và logistics; đóng và sửa chữa tàu biển; dịch vụ bảo vệ thăm dò, khai thác dầu khí; xây dựng, sửa chữa các công trình biển và ngoài khơi; đánh bắt và nuôi trồng hải sản; cung ứng dịch vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển đảo… Các ngành nghề sản xuất kinh doanh đã tạo ra nguồn thu rất lớn, đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước, đồng thời tạo nguồn lực nâng cao đời sống bộ đội, hỗ trợ đầu tư phương tiện, trang thiết bị cho nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Tiêu biểu phải kể đến Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, nhà khai thác cảng và dịch vụ logistics lớn nhất Việt Nam, top 16 cụm cảng container có sản lượng thông qua lớn nhất thế giới, một trong những thương hiệu mạnh của quốc gia trong lĩnh vực kinh tế biển. Cùng với đó là các nhà máy đóng và sửa chữa tàu; các hải đoàn kinh tế quốc phòng có các đội tàu đánh cá công ích, đội tàu dịch vụ, trung tâm dịch vụ hậu cần - kỹ thuật nghề cá…
Để góp phần phát triển kết cấu hạ tầng biển đảo, Quân chủng Hải quân đã tham mưu đề xuất Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng triển khai các đề án, dự án lớn, các công trình chiến lược, lưỡng dụng, như cầu cảng, sân bay, âu tàu, làng chài, khu kinh tế quốc phòng biển đảo, công trình phòng thủ… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng trên biển. Đồng thời, các lực lượng của Quân chủng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên biển, thường xuyên hỗ trợ, bảo vệ an toàn các hoạt động kinh tế biển; tích cực tham gia công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, nhất là ở các vùng biển xa, với tinh thần “cứu giúp nhân dân là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình, là mệnh lệnh trái tim”; cung cấp dầu, nước ngọt, lương thực, thực phẩm cho các tàu cá, giúp ngư dân yên tâm vươn khơi bám biển, tăng cường hiện diện trên biển, đặc biệt là vùng biển xa bờ… Trong bối cảnh, đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền biển quốc gia, Hải quân nhân dân Việt Nam phải tiếp tục làm tốt chức năng, nhiệm vụ của một “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới.
Khối Sĩ quan Hải quân nhân dân Việt Nam tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, Hải quân nhân dân Việt Nam được tôi luyện, phát triển ngày càng lớn mạnh, giành chiến thắng vẻ vang, lập nhiều chiến công xuất sắc; đánh đuổi, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển; đóng góp to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; xây đắp nên truyền thống “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến quyết thắng”. Hiện nay, Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ trên tuyến đầu, nơi khó khăn, gian khổ, ngoài hải đảo xa xôi; luôn chắc tay súng, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Với những cống hiến to lớn trong thời chiến và thời bình, Hải quân nhân dân Việt Nam vinh dự được Đảng, Nhà nước 02 lần truyên dương Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, tặng thưởng 02 Huân chương Sao vàng, 02 Huân chương Hồ Chí Minh, 01 Huân chương Độc lập; 02 Huân chương Quân công; 03 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc; Huân chương Lao động hạng Ba; 82 lượt tập thể và 58 cá nhân được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng Lao động; hàng nghìn tập thể và cá nhân được tặng nhiều phần thưởng cao quý khác.
Ngày nay, cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam không ngừng thi đua học tập, rèn luyện trau dồi bản lĩnh chính trị, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bám tàu, bám biển giữ vững chủ quyền, an ninh trên biển, tham gia cứu hộ, cứu nạn; tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an toàn các hoạt động kinh tế biển và tham gia lao động sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tự hào với truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ đội Hải quân anh hùng, Quân chủng Hải quân tiếp tục nêu cao tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, đoàn kết, sáng tạo, quyết tâm xây dựng Quân chủng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển, góp phần đưa Việt Nam vững bước trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Lê Sơn