Kỷ niệm 78 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam (06/01/1946-06/01/2023) - Đi bầu cử là thực hiện quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân Việt Nam

05/01/2024 16:57:24 11524      Chọn cỡ chữ A a  

78 năm trước, ngày 06/01/1946, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể Nhân dân Việt Nam nô nức đi bỏ phiếu, lựa chọn người đại diện cho mình vào Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam). Từ mốc lịch sử đó, Quốc hội Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, đạt được những thành tựu nổi bật trong hoạt động lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần to lớn vào thành tựu 38 năm đổi mới, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, đất nước ta trong hoàn cảnh gặp muôn vàn khó khăn, thử thách: Ngân sách cạn kiệt, hơn 90% người dân bị mù chữ, nạn đói hoành hành, thù trong giặc ngoài âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ, vận mệnh của Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, nhiệm vụ cấp thiết, rất quan trọng lúc này là tiến hành ngay cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội. Ngày 03/9/1945, sau khi tuyên bố độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị một trong sáu nhiệm vụ cấp bách phải thực hiện ngay là “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để bầu ra Quốc hội. Ngày 08/9/1945 Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 14/SL về cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên để bầu Quốc hội. Bản Sắc lệnh đã nhấn mạnh yêu cầu bức thiết của Tổng tuyển cử; đồng thời, chỉ rõ chúng ta có đủ cơ sở pháp lý, điều kiện khách quan và chủ quan để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử.

Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 14-SL quy định mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội và ghi rõ: Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ngày 16, 17/8/1945 tại khu giải phóng, ấn định rằng nước Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa và Chính phủ nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thông đầu phiếu cử lên; tiếp theo đó, ban hành Sắc lệnh số 39-SL, ngày 26/9/1945 về thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL, ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín; Sắc lệnh số 71-SL, ngày 02/12/1945 bổ khuyết Điều 11 chương V của Sắc lệnh số 51-SL nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử. Công tác chuẩn bị cho Tổng tuyển cử diễn ra rất khẩn trương trong điều kiện thù trong, giặc ngoài; trong bối cảnh nền kinh tế, xã hội hết sức khó khăn. Cuộc Tổng tuyển cử lúc đầu được dự kiến là ngày 23/12/1945, nhưng để thực hiện chủ trương thống nhất và hòa giải, có thêm thời gian cho công tác chuẩn bị và các ứng cử viên có điều kiện nộp đơn, đi vận động tranh cử. Ngày 18/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày chủ nhật (06/01/1946).

Với niềm tin vào Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta đã một lòng ủng hộ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc. Nhiều người có tài, có đức đã tự ứng cử hoặc được quần chúng giới thiệu ra ứng cử. Danh sách các cử tri và ứng cử viên được niêm yết công khai. Quần chúng sôi nổi trao đổi, tranh luận, chất vấn nhằm lựa chọn được những người xứng đáng nhất làm đại diện của mình, hạn chế tới mức tối đa những phần tử cơ hội lợi dụng dịp Tổng tuyển cử để tranh giành quyền chức. Tại các địa phương, Nhân dân ta nô nức kéo về trụ sở chính quyền các tỉnh, thành, huyện lỵ mít tinh hoan nghênh Tổng tuyển cử và ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Không chỉ ở các tỉnh, thành mà ở cả các bản làng xa xôi hẻo lánh cũng tràn ngập không khí, tưng bừng, rộn ràng tiếng cồng chiêng cổ động cho Tổng tuyển cử. Đến cả kiều bào xa xứ ở các nước như: Pháp, Thái Lan, Lào… cũng tổ chức mít tinh, hội họp, gửi điện tín, ủng hộ Tổng tuyển cử. Có thể nói, cả dân tộc như hừng hực khí thế và sức sống trước ngày hội của non sông.

Ngày 05/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, trong đó, có đoạn: “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà Nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”.

Hưởng ứng lời hiệu triệu thiêng liêng của Người, ngày 06/01/1946, với tinh thần yêu nước nồng nàn và khí thế hào hùng của Cách mạng Tháng Tám, toàn thể Nhân dân Việt Nam, trên khắp mọi miền của Tổ quốc, từ miền xuôi đến miền ngược, từ nông thôn đến thành thị, không phân biệt gái trai, già trẻ đã dành trọn ngày lịch sử, nô nức tham gia bầu cử, bất chấp sự phá hoại điên cuồng của các thế lực xâm lược và chống đối.

Tổng số cử tri đi bỏ phiếu đạt tỷ lệ 89%, trừ một số nơi phải bầu bổ sung còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cuộc Tổng tuyển cử bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau; 43% số đại biểu không đảng phái; 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu dân tộc thiểu số. Trong thành phần của Quốc hội có đại biểu đại diện cho cả ba miền Bắc - Trung - Nam, các giới từ những nhà cách mạng lão thành, thương gia, nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt động văn hóa, đến đại biểu các thành phần tôn giáo, những người không đảng phái và các đảng phái chính trị. 

 

Quốc hội khóa I và dấu ấn của 333 đại biểu Quốc hội đầu tiên - Ảnh 3.

Các đại biểu dự Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội Khóa I tại Nhà hát Lớn Hà Nội (Ảnh tư liệu)

Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam ngày 06/01/1946 được tiến hành theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho Nhân dân Việt Nam về đối nội, đối ngoại.

Qua 77 năm trưởng thành và phát triển với 15 khóa bầu cử, Quốc hội (khóa I) kéo dài 14 năm (1946-1960) đưa đất nước giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, đi lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Quốc hội khóa II (1960-1964), khóa III (1964-1969) và khóa IV (1969-1975) thực hiện sự nghiệp chung của toàn dân tộc là đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc. Quốc hội khóa V (1975-1976), khóa VI (1976-1981), khóa VII (1981-1987) thực hiện thống nhất về mặt Nhà nước, mở ra hành trình mới với quốc hiệu nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội khóa VIII (1987-1992) bắt đầu công cuộc đổi mới của Đảng, với quá trình chuyển từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ Quốc hội khóa IX (1992-1997) đến khóa XV (2021-2026) đất nước tiếp tục đà phát triển mạnh mẽ, tạo nên những dấu ấn đặc biệt đối với khu vực và trên thế giới. Qua từng giai đoạn lịch sử đất nước, Quốc hội Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng “là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.

Quốc hội (khóa I) đã thông qua Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ, đạo luật cơ bản đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng thể chế Nhà nước Cách mạng trong thời đại mới và thông qua Hiến pháp 1959, tạo nền tảng pháp lý cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Quốc hội các khóa II, III, IV và V được tổ chức theo Hiến pháp 1959, đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc xây dựng, khôi phục kinh tế ở miền Bắc để trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam, cùng với việc đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của Cuộc tổng tiến công, nổi dậy và đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Quốc hội (khóa VI) đổi tên nước thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thông qua bản Hiến pháp 1980, Hiến pháp của thời kỳ cả nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Quốc hội khóa VII, khóa VIII được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1980, đã góp phần quan trọng trong việc đưa đất nước vượt qua khó khăn của thời kỳ bị cấm vận, bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước. Trong đó, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp 1992, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội khóa IX, X được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1992, đã có những đổi mới mạnh mẽ với nỗ lực cao trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Các khóa Quốc hội XI, XII và XIII là Quốc hội của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng; hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng, từng bước được đổi mới, ngày càng thực chất, hiệu quả hơn, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, Quốc hội khóa XIII ban hành Hiến pháp 2013, thể chế hóa các quan điểm, phương hướng, nội dung phát triển trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta, đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử lập hiến, lập pháp và chủ động hội nhập quốc tế.

Kỷ niệm 78 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam (06/01/1946-06/01/2024) là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại lịch sử hình thành và phát triển; ghi nhận những thành tựu và rút ra những bài học kinh nghiệm mà Quốc hội Việt Nam đã đạt được góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về Quốc hội và hoạt động của Quốc hội. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân; sự hợp tác và giúp đỡ của bạn bè quốc tế; sự ủng hộ và giám sát của Nhân dân, Quốc hội tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng hào hùng của dân tộc, luôn là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”[1], xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới, đưa nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”[2].

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 284

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 104.

Lê Văn Sơn

Bản in
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

    Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

  • Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

    Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

  • Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

  • Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

    Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

  • Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

  • Hôm nay:   43550
  • Tháng hiện tại:   385236
  • Tổng lượt truy cập:   8017690