Cách đây 70 năm, ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Nhân dân ta. Trải qua 70 năm, những bài học về đàm phán và ký kết, nhất là nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” trong Hiệp định Giơnevơ vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển và đổi mới đất nước, nhất là việc thực thi đường lối ngoại giao “cây tre Việt Nam ngày nay.
Giữa quân sự và ngoại giao có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, quân sự quyết định ngoại giao và ngược lại, ngoại giao là tiền đề, là văn bản pháp lý ghi nhận thắng lợi về mặt quân sự. Ngay khi giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, đưa nước ta từ một thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đưa người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành người chủ vận mệnh đất nước, vận mệnh chính mình… Tuy nhiên, chỉ 21 ngày sau khi độc lập, thực dân Pháp đã nổ súng, tấn công Sài Gòn, chính thức xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Trong bối cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 gặp muôn vàn khó khăn, thử thách về chính trị “chính quyền cách mạng non trẻ” - Chính phủ lâm thời; lực lượng vũ trang thì còn non yếu, mới thành lập (22/12/1944), lực lượng còn ít lại có vũ khí thô sơ; kinh tế thì nghèo nàn, ruộng đất thì bỏ hoang, công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu,… nạn đói cũ chưa khắc phục được, nạn đói mới lại hoành hành, đẩy nước ta vào tình trạng “giặc đói”; văn hóa nước ta trong tình trạng “giạc dốt”, có tới hơn 90% dân số mù chữ, tện nạn xã hội, mê tín dị đoan phổ biến; tài chính thì “trống rỗng”, đồng tiền quan kim, quốc tế thì rách nát, mất giá,… Trong bối cảnh đó, thù trong giặc ngoài thì đông và mạnh, từ vĩ tuyến 16 trở ra, có 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch, núp dưới danh nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội phát xít Nhật đã tràn vào nước ta, theo sau chúng là bọn phản động trong nước như “Việt Quốc”, “Việt Cách”,… thừa cơ ngóc đầu dậy; từ vĩ tuyến 16 trở vào, 1 vạn quân Anh đã dọn đường cho quân Pháp trở lại xâm lược nước ta, theo sau chúng là bọn tay sai…. Tình hình đó đẩy nước ta vào tình thế hiểm nghào “ngàn cân treo sợi tóc”. Mặc dù, chính phủ ta có thiện chí “hòa bình” nên đã nhân nhượng chúng, nhưng “chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Qua đó cho thấy, khi ta chưa có thực lực về kinh tế, về quân sự thì kẻ thù không bao giờ tôn trọng độc lập của ta. Chúng đã buộc ta phải ký Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 với, trong đó, chúng không công nhân Việt Nam là “quốc gia độc lập”, mà chỉ công nhận Việt Nam là “quốc gia tự do”. Sau đó, chúng tiếp tục vi phạm Hiệp định Sơ bộ nên buộc Chính phủ ta phải ký bản Tạm ước 14/9/1946, tiếp tục nhân nhượng chúng. Tuy nhiên, với dã tâm xâm lược nước ta, nên chúng tiếp tục vi phạm, đặc biệt là chúng gửi tối hậu thư đòi Chính phủ ta phải giải tán, giao nộp chính quyền cho chúng. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” ngày 19/12/1946.
Ở giaI đoạn đầu, với ưu thế về binh, hỏa lực, thực dân Pháp đã thực hiện âm mưu, thủ đoạn “đánh chớp nhoáng”, “đánh nhanh thắng nhanh”. Ngược lại, quân ta phải bị động đối phó với chúng ở đô thị Hà Nội, bảo vệ cơ quan đầu não rút lên Việt Bắc an toàn; sau đó quân và dân ta giành nhiều thắng lợi quân sự quan trọng trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, Biên giới Thu - Đông năm 1950, các chiến dịch từ 1951-1952, chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ta đã chuyển từ thế phòng ngự bị động sang phòng ngự tích cực, chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, phản công và giành thắng lợi quyết định trong trận Điện Biên Phủ năm 1954. Quân Pháp thì ngược lại, ngày càng xa lầy trong chiến tranh, chuyển từ chỗ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh lâu dài” với ta, rồi bị động đối phó với ta và thất bại hoàn toàn tại Điện Biên Phủ, buộc phải ký vào Hiệp định Giơnevơ. Đặc biệt, trong khi từ đầu năm 1950, các nước xã hội chủ nghĩa, đi đầu là Trung Quốc, Liên Xô,… lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta, nâng cao vị thế của Việt Nam, phong trào dân chủ tiến bộ, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong đó, có nước Pháp đã biểu tình, ủng hộ cuộc kháng chiến của Nhân dân Việt Nam, còn thực dân Pháp ở Đông Dương chiến tranh kéo dài chúng càng bị xa lầy, phải nhờ sự can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh Đông Dương.
Từ thực tế trên cho thấy, khi ta giành thắng lợi về quân sự, có “sức mạnh thực lực” trong nước, ta sẽ có thế mạnh trên bàn đàm phán, ta tranh thủ được sự ủng hộ của các nước, hỗ trợ cho chiến thắng. Còn khi ta ở thế “ngàn cân treo sợi tóc” thì kẻ thù sẽ không bao giờ nhân nhượng ta. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ “nghệ thuật vừa đánh, vừa đàm”. Đây là một phương pháp cách mạng, một biện pháp chiến lược đầy sáng tạo, vừa “quyết đánh”, vừa “biết đánh”, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, vừa kiên quyết, vừa khôn khéo nhằm đánh thắng một kẻ địch có tiềm lực quân sự mạnh hơn ta gấp bội. “Vừa đánh, vừa đàm” trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã được phát huy, quân và dân ta nỗ lực giành thắng lợi quyết định trên mặt trận quân sự Điện Biên Phủ (ngày 7/5/1954), có nghĩa là quân ta làm phá sản các mục tiêu chủ yếu của từng chiến lược chiến tranh của địch, làm thay đổi cục diện chiến trường, buộc địch phải thay đổi chiến lược, tạo điều kiện cho quân ta tiến lên giành thắng lợi cuối cùng, kết thúc cuộc kháng chiến. Ngay hôm sau (ngày 8/5/1954), phái đoàn Việt Nam bước vào Hội nghị Giơnevơ về Đông dương trong tư thế của người chiến thắng.
Trong cuộc đàm phán đi đến Hội nghị và Hiệp định Giơnevơ năm 1954, ta có thể thấy rõ vai trò quyết định của nội lực. Hội nghị Giơnevơ có các nước khác tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng ta vẫn làm chủ giải pháp. Tại Hội nghị Giơnevơ chúng ta phải chịu đựng sức ép không chỉ của đối phương mà cả từ nước bạn Liên Xô, Trung Quốc và chúng ta đã có những nhân nhượng, nhưng căn bản ta đạt được kết quả phản ánh đúng so sánh lực lượng lúc bấy giờ. Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cùng với Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 đã trở thành 2 văn kiện ngoại giao quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta.
Sau 70 năm nhìn lại, có thể khẳng định như lời Bác Hồ đã tiên báo từ năm 1945 "Ðem sức ta mà tự giải phóng cho ta" chính là nền tảng vững chắc nhất cho sự nghiệp cứu nước, trong đó, chúng ta có quyền cao nhất là quyền tự quyết định công việc của Tổ quốc mình.
Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Cuộc đấu tranh tự giải phóng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20 diễn ra lúc thế giới bước vào "thời đại toàn cầu", khác hẳn trước kia ở đâu chỉ biết đấy. Ðó là do trình độ của loài người đã đến mức cao, trong đó, có lĩnh vực thông tin. Tình hình đó giúp chúng ta tranh thủ nhân tố tiến bộ trên thế giới cho sự nghiệp chính nghĩa tự giải phóng, tuy rằng cũng có phức tạp tùy theo đối tượng mà ta tranh thủ và cũng tùy theo thời điểm.
Suốt thời gian quân dân ta ra sức chống thực dân Pháp tìm cách tái thống trị nước ta, càng ngày nhân dân Pháp càng ủng hộ chúng ta và phản đối chính sách của Chính phủ nước họ. Hiện tượng đó xuất hiện trong thời kỳ chúng ta kháng chiến bằng quân sự, phát triển trong các thời gian ta và Pháp đàm phán ở Giơnevơ và vẫn tồn tại sau khi ta và Pháp đã đi đến ký kết thỏa thuận. Từ đó đến nay, lực lượng xâm lược nước ta, nay chân thành mong muốn trở thành bạn của ta.
Nguyên nhân thắng lợi của nghệ thuật “vừa đánh vừa đàm” là ta đã kế thừa được truyền thống bảo vệ độc lập của Tổ quốc qua nhiều thế hệ, đến thế kỷ XX xuất hiện lực lượng kế tục là Ðảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, gồm những người con ưu tú của dân tộc đã làm nên sự tích thần kỳ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; những người con tận trung với nước, chí hiếu với dân, "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Đặc biệt, trong lòng dân tộc Việt Nam đã xuất hiện lãnh tụ Hồ Chí Minh, vị Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa của Việt Nam, với nhân cách tuyệt vời, tài cao, đức trọng, được toàn dân tin tưởng.
Chính nhờ những nhân tố như vậy mà dân tộc Việt Nam nhỏ bé đã tự mình tạo ra thực lực của mình và nhờ vậy sức mạnh thời đại đã tự nhiên gắn với sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Trong thời đại Hồ Chí Minh có những điều độc đáo trong chính sách đối ngoại của Bác như: Việt Nam chỉ muốn có bạn, không muốn coi ai là thù; Việt Nam sẵn sàng "trải thảm đỏ" cho kẻ đến xâm lược ra đi với mong muốn họ trở lại làm bạn của ta. Từ đó, chúng ta chứng kiến tất cả những nước có quá khứ đối đầu với ta đều đang trở thành đối tác chiến lược của ta, giúp ta chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Hiện nay và trong tương lai, hàng ngũ đối tác chiến lược của Việt Nam sẽ ngày càng đông đảo. Vấn đề là chúng ta phải tự nâng trình độ mọi mặt của mình lên để sử dụng hiệu quả nhất quan hệ hợp tác quốc tế, xây dựng có chất lượng cao hơn một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh; nói cách khác là sớm đạt mục tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Việt Nam Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Xuất phát từ thực tế nước ta là nước nhỏ, trình độ mọi mặt so với các thế lực xâm lược thuộc loại cường quốc thì rõ ràng là chênh lệch rất lớn. Trong lịch sử thế giới ta thấy khi đương đầu với nước lớn, các nước nhỏ thường đi "cầu viện" và các thế lực "chi viện" có vai trò quyết định trong cuộc đối đầu và đặc biệt là khi kết thúc. Với bài học của lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn và sâu sắc cả hai mặt là ta phải tự chủ đồng thời phải tranh thủ được sự hỗ trợ từ bên ngoài. Thực tế lịch sử là chính nghĩa không phải lúc nào cũng "tất thắng" mà lắm khi phải chờ đợi, thậm chí cũng phải chịu nhiều phen thất bại. Từ đó vấn đề là phải làm sao cho chính nghĩa được "tất thắng". Câu trả lời là phải tạo điều kiện cho chính nghĩa thắng, phải biết "cách làm" cho chính nghĩa thắng. Nói cách khác, là phải có phương pháp cách mạng thích hợp, trong đó có phương pháp ngoại giao. Thực tế ở nước ta phương pháp là yếu tố quyết định nhất cho thắng lợi.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã áp dụng phương pháp cách mạng và phương pháp ngoại giao là "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Ðây là ý tưởng đã có từ xưa trong lịch sử Trung Quốc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiện đại hóa và Việt Nam hóa, nâng lên tầm cỡ thời đại. Sở dĩ như vậy là vì lần đầu tiên có cuộc "thử sức" giữa một nước nhỏ bé là Việt Nam với các thế lực xâm lược vào loại mạnh nhất thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong đó, Việt Nam đã "vạn biến" trên cơ sở kiên trì cái "bất biến" là Tổ quốc độc lập - thống nhất. Cái bất biến này được Bác Hồ và toàn dân Việt Nam thể hiện: "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một". "Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý đó không bao giờ thay đổi". Câu nói của Bác được cả loài người chia sẻ là: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Ðây cũng là bản lĩnh của Người, biết lượng sức mình và sức đối phương, biết giành thắng lợi từng bước để tiến dần đến thắng lợi hoàn toàn. Ở Việt Nam, vào thời đại Hồ Chí Minh, nghệ thuật "vừa đánh, vừa đàm" được phát huy cao độ, trong đó, quân sự và ngoại giao hợp đồng với nhau dẫn đến một sự trùng lặp kỳ tác của lịch sử là sau trận Ðiện Biên Phủ mặt đất thì có Hiệp định Giơnevơ.
Hiệp định Giơnevơ đánh dấu sự kết thúc một chặng đường trong quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ để đi tới độc lập tự do của dân tộc. Việc ký kết dựa trên căn cứ và phần nào phản ánh đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, song “ký Hiệp định Giơnevơ là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp là phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng trên chiến trường và hoàn cảnh quốc tế lúc bấy giờ”.
Hiệp định Giơnevơ là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Lần đầu tiên các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được các nước lớn công nhận tại một hội nghị đa phương. Pháp và các nước tham gia hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị” của Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp buộc phải đình chỉ chiến sự và rút hoàn toàn quân đội khỏi lãnh thổ 3 nước Đông Dương. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để ta ký Hiệp định Paris năm 1973 buộc: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của Nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, giải phóng miền Bắc nước ta, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương lớn, vững mạnh cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Hiệp định Giơnevơ đã thể hiện bản lĩnh của nền ngoại giao Cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên tham gia vào một hội nghị đa phương trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, các nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và lợi ích riêng nhưng đoàn đàm phán của ta đã phát huy chiến thắng trên chiến trường, phát huy sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược để giành được những kết quả quan trọng trên bàn Hội nghị.
Tháng 12/2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thưởng thức trà tại Hà Nội (Ảnh tư liệu)
Kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tháng 11/2023, Đảng ta ra mắt cuốn sách: "Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta đã hình thành nên trường phái đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, can trường trước mọi khó khăn, thử thách, vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của Nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Ngoại giao Việt Nam phản ánh bản sắc của dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ bang giao với thế giới và thông qua tương tác với bên ngoài để làm giàu thêm bản sắc của mình rất độc đáo, sáng tạo, đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chọn hình ảnh cây tre để nói về trường phái đối ngoại và ngoại giao của dân tộc ta, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam", "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển"; thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường.
Lê Sơn