Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Để Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh", giữ vững vị trí, vai trò, năng lực cầm quyền, lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Người luôn quan tâm chỉ đạo công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng, đặc biệt thể hiện rõ tính Đảng, tính nhân văn sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về công tác xây dựng Đảng nói chung và về công tác kiểm tra, kiểm soát, kỷ luật đảng nói riêng. Lý luận về kiểm tra, kỷ luật đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, được Đảng ta vận dụng có hiệu quả trong suốt quá trình cách mạng.
Hình minh họa
Trước tiên là về vai trò của công tác kiểm tra:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi kiểm tra là một khâu quan trọng trong toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng. Người chỉ rõ: “Có kiểm tra mới huy động tinh thần tích cực và lực lượng to tát của Nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Theo Người, mục đích của công tác kiểm tra chính là phát hiện những hạn chế, bất cập, thiếu sót trên mọi phương diện trong quá trình tổ chức thực hiện để hoàn thành tốt nhất công việc đề ra. Thông qua kiểm soát, những hạn chế, khuyết điểm đều được phát hiện và khắc phục kịp thời; nhờ có kiểm tra mà biết rõ cán bộ tốt hay xấu, mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan, của các mệnh lệnh và nghị quyết. Đồng thời, công tác kiểm tra còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là một trong ba nhân tố quyết định đến sự thành công của mọi công việc, bên cạnh cách thức tổ chức thực hiện và công tác cán bộ. Theo Người, nếu thiếu một trong ba điều trên thì chính sách đúng đến mấy cũng không thể mang lại hiệu quả trong thực tiễn.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa lãnh đạo và kiểm tra có mối quan hệ biện chứng và là nguyên nhân - kết quả của nhau. Trong đó, kiểm tra được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng quyết định tính đúng đắn và đem lại hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo. Người chỉ rõ: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1- Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng… 2- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng… 3- Phải tổ chức sự kiểm soát”. Trong lãnh đạo cần phải thực hiện kiểm tra, kiểm tra là để phục vụ lãnh đạo, có như vậy các nghị quyết, chính sách mới đi vào cuộc sống, mới được tổ chức thực hiện tốt và có kết quả. Kiểm tra là yếu tố cơ bản để người lãnh đạo bám sát thực tiễn hoạt động. Kết quả kiểm tra giúp cho người lãnh đạo có thông tin thực tiễn, từ đó ban hành, điều chỉnh các quyết định một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu định hướng quản lý, lãnh đạo.
Trong công tác kiểm tra thì chủ yếu là kiểm tra cán bộ thực hiện Điều lệ Đảng và nghị quyết của Đảng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Mục đích lựa chọn cán bộ là dùng nhân tài cần phải hợp lý, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn”, và cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách. Mà muốn biết sự động viên và thực hành ấy đã đến mức nào, thì phải có kiểm tra”. Có thể nói rằng, chín phần mười khuyết điểm trong công việc chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm.
Kiểm tra bao giờ cũng đi liền với kỷ luật trong Đảng. Hồ Chí Minh coi: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ, đảng viên”. Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên càng có công thì càng phải khiêm tốn, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”. Người yêu cầu đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật của Đảng mà còn “phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể cách mạng, của Nhân dân”; họ “tưởng là đảng viên thì muốn làm trời làm đất thì làm”. Các đảng viên, cán bộ đó “không biết kỷ luật của chính quyền, của đoàn thể, Nhân dân và Đảng cũng là một”. Hồ Chí Minh yêu cầu những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau.
Về cách thức kiểm tra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần phải vận động quần chúng nhân dân tham gia vào công tác kiểm tra, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy, sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại”. Theo Người, trong công tác kiểm tra nói riêng và trong mọi công tác nói chung cần phải xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, phải lắng nghe ý kiến của Nhân dân, đó là, nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi.
Thứ hai, công tác kiểm tra phải được thực hiện có hệ thống, phải làm thường xuyên. Nghĩa là khi đã có nghị quyết, chính sách thì phải lập tức đôn đốc, tổ chức thực hiện nghị quyết, chính sách ấy, “phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và Nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ những khuyết điểm và những khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách giúp đỡ để vượt qua mọi sự khó khăn”; đồng thời, kiểm tra có liên quan mật thiết đến sự thành bại của công việc, nên cần phải được thực hiện thường xuyên, bền bỉ và có kế hoạch cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết.
Thứ ba, công tác kiểm tra phải được tiến hành tận nơi, sát người, sát việc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc kiểm tra không nên chỉ dựa vào hệ thống báo cáo, mà phải đi đến tận nơi, xem tận chỗ. Phương pháp trong kiểm tra là phải đi cơ sở nắm thông tin, tình hình; thẩm tra, xác minh, phân tích, đánh giá để kết luận vụ, việc khách quan, chính xác. Chủ thể kiểm tra phải sử dụng cả phương pháp kiểm tra trực tiếp và kiểm tra gián tiếp để bảo đảm tính tập trung, dân chủ, nhằm đưa ra những quyết định và các biện pháp xử lý đúng tính chất vụ, việc. Người từng thẳng thắn phê phán: “Nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”.
Thứ tư, sử dụng cách thức tự phê bình và phê bình trên tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí để kiểm tra. Quá trình kiểm tra phải gắn với tự phê bình và phê bình để giáo dục, thuyết phục, uốn nắn đảng viên, cán bộ và định hướng công tác lãnh đạo của các tổ chức, cơ sở, tạo điều kiện phát huy dân chủ trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ quan quản lý của Nhà nước. Công tác kiểm tra gắn với tự phê bình và phê bình là một giải pháp khoa học nhằm làm cho mỗi tổ chức, cơ sở vững mạnh, cán bộ, đảng viên luôn giữ vững định hướng chính trị, nhận thức tư tưởng, trau dồi phẩm chất đạo đức trong sáng; đồng thời, chủ động cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm của cán bộ, đảng viên trong quá trình công tác.
Thứ năm, trong quá trình kiểm tra cần phải thực hiện kiểm tra từ trên xuống và từ dưới lên. Kiểm tra từ trên xuống nghĩa là người lãnh đạo kiểm tra kết quả công việc của cán bộ mình quản lý; còn kiểm tra từ dưới lên tức là quần chúng Nhân dân và cán bộ cấp dưới kiểm soát công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp trên, đề xuất giải pháp khắc phục, sửa chữa nếu phát hiện thấy hạn chế, sai lầm, khuyết điểm.
Thứ sáu, kiểm tra đi liền với công tác kỷ luật của Đảng. Bởi theo Người, “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây ngấm vào trong Đảng”. Do vậy, kỷ luật trong đảng là một tất yếu khách quan, để ngăn chặn khuyết điểm, sai lầm; sửa chữa thói hư, tật xấu; thải loại những kẻ thoái hóa, biến chất; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Hình minh họa
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mệnh lệnh hành động xuyên suốt trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, công tác kiểm tra, kỷ luật đều được quan tâm và điều chỉnh phù hợp về chức năng, nhiệm vụ để thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước. Suốt chặng đường cách mạng của Đảng, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng thể hiện chủ yếu trên ba mặt sau: Một là, trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Đảng; Hai là, trong hoạt động thực tiễn của Đảng nói chung và của ủy ban kiểm tra, đội ngũ cán bộ kiểm tra nói riêng; Ba là, trong việc tổng kết, đánh giá công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng hằng năm và các nhiệm kỳ. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta đã khẳng định: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”.
Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng cũng còn không ít tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới, chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời; trong công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu giúp việc các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm.
Xuất phát từ thực tế của Đảng, của đất nước và quốc tế ngày nay, để chủ động học tập, nhận thức lại, bổ sung, phát triển và thực hành một cách sáng tạo “tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình” và những chân lý phổ biến của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, Đảng ta cần tổng kết thực tiễn và tiếp tục xây dựng lý luận công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong bối cảnh mới.
Theo đó, có thể tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Một là, các cấp uỷ, tổ chức đảng và UBKT các cấp cần nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng nhằm nắm vững và hiểu được những nội dung cốt lõi và phương pháp luận cơ bản. Trong đó, cần chú ý:
- Nắm tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng là nắm lập trường, quan điểm, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng.
- Hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng không phải là giáo điều, “kinh viện”, nhớ thật nhiều sách, thuộc nhiều câu của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng để trích dẫn, mà dùng lập trường, quan điểm, phương pháp Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề của thực tiễn đang đặt ra đối với công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong bối cảnh mới hiện nay. Lập trường của Hồ Chí Minh là lập trường cách mạng triệt để, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh là quan điểm khoa học, xuất phát từ thực tiễn, phát hiện quy luật và làm theo quy luật. Phương pháp của Hồ Chí Minh là phương pháp biện chứng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống những tư tưởng khoa học, cách mạng làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, trong đó có công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đó không phải là những công thức, khuôn mẫu bất di, bất dịch, giáo điều, trong quá trình nghiên cứu, học tập, vận dụng, phát triển cần đặc biệt quan tâm, chú ý làm rõ một số vấn đề sau:
a) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng trước kia đã đúng, bây giờ vẫn đúng và về lâu dài sau này vẫn đúng.
b) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng trước kia đúng, nhưng điều kiện thực tiễn hiện nay đã thay đổi, không còn phù hợp, cần bổ sung, phát triển hoặc thay đổi.
c) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng mà ngay lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã nhận thấy không thuyết phục, không có tính khả thi, hoặc đã thừa nhận là sai và đã sửa đổi nhưng những người nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền, học tập, cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn vẫn chưa biết đến, biết hết.
d) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng mà những người nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền, học tập, cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn đã hiểu không đầy đủ, hoặc hiểu sai, hoặc hiểu theo cách hiểu không đúng.
Đó thực sự là những vấn đề lớn, không thể nóng vội làm ngay, cần dày công, kiên trì, quyết tâm nghiên cứu mới dần dần sáng tỏ được; đồng thời phải từ thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng qua gần 50 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước mới có thể đi đến những kết luận đúng đắn được.
Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng tăng tính cập nhật, tính thiết thực, tính hấp dẫn, tính chiến đấu, tính giáo dục, tính dẫn đường của lý luận, không bằng lòng với những kết luận có sẵn, không lặp lại đi, lặp lại những câu chữ, những mệnh đề của tư tưởng Hồ Chí Minh khi chưa hiểu thấu đáo quan điểm của Người, chống quy kết, chụp mũ, giáo điều, xét lại.
Ba là, UBKT các cấp phải nêu cao vai trò tham mưu, giúp cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức vận dụng đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng vào hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp mình.
Bốn là, chủ thể và đối tượng kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cần quán triệt sâu sắc, vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Năm là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Sáu là, xây dựng tổ chức bộ máy kiểm tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong bối cảnh mới hiện nay.
Bảy là, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận và tống kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Phải bồi dưỡng cho được một đội ngũ cán bộ lý luận chính trị chuyên sâu, có trình độ cao, ngang tầm nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới để giúp Đảng trong việc xây dựng lý thuyết về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong bối cảnh mới.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra là một hệ thống những tư tưởng quan trọng và có ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng hiện nay nói riêng và của công tác xây dựng đảng nói chung. Những quan điểm, tư tưởng của Người về công tác kiểm tra, kỷ luật đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự và giá trị cả về lý luận, thực tiễn, là những định hướng quý báu và quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật.
Phan Huỳnh Yến Nhung