Cách đây 65 năm, ngày 19/5/1959, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy triệu tập Ban Cán sự chính thức giao nhiệm vụ cho Đoàn mở đường chi viện cho chiến trường miền Nam, cũng là Ngày truyền thống của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn khi Thường trực Tổng Quân ủy chính thức giao nhiệm vụ cho “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” làm nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng quân sự vào miền Nam, tổ chức đưa đón bộ đội, chuyển công văn, tài liệu từ miền Bắc vào miền Nam và ngược lại.
Nhận nhiệm vụ trong bối cảnh đất nước ta đang bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn tạm thời nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Ngô Đình Diệm. Bước sang năm 1959, cách mạng miền Nam đứng trước một bước ngoặt, đòi hỏi Đảng ta phải có quyết sách kịp thời. Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Đảng về nhiệm vụ chi viện cho miền Nam, việc nhanh chóng mở đường vận chuyển chi viện chiến lược cho các chiến trường trở thành một nhiệm vụ hết sức quan trọng, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Trước tình hình đó, tháng 5/1959, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn công tác quân sự đặc biệt (sau gọi là Đoàn 559), làm nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng hóa, tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc với phương thức vận chuyển ban đầu hết sức thô sơ, chủ yếu là đi bộ, mang vác, gùi thồ. Đoàn có nhiệm vụ soi đường, bảo đảm giao thông liên lạc từ miền Bắc vào miền Nam, vận chuyển gấp 7.000 súng bộ binh, tổ chức bảo đảm đưa 500 cán bộ trung cấp, sơ cấp hành quân vào chiến trường làm nòng cốt xây dựng lực lượng chủ lực. Để hoàn thành nhiệm vụ, Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng quyết định biên chế bước đầu của Đoàn là 500 cán bộ, chiến sĩ. Ngoài Đoàn bộ, Đoàn được tổ chức thành Tiểu đoàn vận tải bộ 301 và các bộ phận: xây dựng kho, bao gói hàng, sửa chữa vũ khí, chế biến thực phẩm.
Đầu tháng 6/1959, Đoàn 559 tổ chức đội khảo sát mở tuyến vào Nam bắt đầu từ Khe Hó (thung lũng Vĩnh Linh), sau đó, vạch tuyến phát triển về hướng Tây Nam, điểm đặt trạm cuối cùng là Pa Lin, kế cận trạm tiếp nhận của Khu 5. Con đường này phải vượt qua nhiều dãy núi cao hiểm trở, khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Để bảo đảm tuyệt đối bí mật, khẩu hiệu hành động của Đoàn là “Ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”; phải chủ động tránh địch và bí mật. Ngày 13/8/1959, chuyến hàng đầu tiên chính thức vượt Trường Sơn. Sau 8 ngày đêm vượt qua bao sông sâu, suối dữ, đèo cao và hệ thống đồn bốt chốt chặn của địch, chuyến hàng đầu tiên được gùi bộ trên tuyến đường bàn giao cho Liên khu 5. Ngày 12/9/1959, Bộ Quốc phòng ra quyết định chính thức thành lập Đoàn 559 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Kết thúc năm 1959, Đoàn 559 đã chuyển được vào Khu 5 số hàng gồm 1.667 khẩu súng bộ binh, hàng trăm nghìn viên đạn và một số quân dụng thiết yếu khác, đưa 542 cán bộ, chiến sĩ vào làm nhiệm vụ ở miền Nam. Tuyến hành lang giao liên vận tải quân sự Trường Sơn được thiết lập, là cầu nối giữa hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường miền Nam. Từ năm 1960, Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn phát triển nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu từng giai đoạn cách mạng miền Nam.
Các chiến sĩ của Trung đoàn 70 - đơn vị đầu tiên của bộ đội Trường Sơn - đang thồ hàng trên tuyến Tây Trường Sơn tháng 9/1961 (Ảnh tư liệu)
Trong những năm đầu 1960-1964, xây dựng tuyến chi viện chiến lược. Trong bối cảnh, địch ngày càng tăng cường lùng sục, đánh phá ác liệt hơn. Ngày 01/9/1960, Hội nghị Ban cán sự Đoàn 559 ra nghị quyết nêu rõ: “Phải quyết tâm tự lực cánh sinh, tranh thủ sử dụng đi đường cũ, đồng thời, tiếp tục soi đường mới để làm đường dự bị”. Tháng 11/1960, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Đoàn 70, lực lượng nòng cốt là Tiểu đoàn 301. Xuất phát từ tình hình thực tế, phương thức vận chuyển của Đoàn được thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, nhanh chóng chuyển đổi phương thức hoạt động mới, từ phòng tránh bị động tiến tới phòng tránh tích cực với phương châm: Đánh địch mà đi, đánh địch để vận chuyển. Về lực lượng, sau hơn 05 năm hoạt động, quân số của Đoàn 559 lên đến 8.000 người. Kết thúc năm 1964, Đoàn 559 đã đưa đón quân vào Khu 5 là 15.896 người, Nam Bộ là 1.571 người.
Trong giai đoạn 1965-1968, tuyến vận tải cơ giới đường Hồ Chí Minh vươn sâu chi viện cho chiến trường miền Nam góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ xâm lược. Từ năm 1965, Nhiệm vụ chủ yếu của Đoàn 559 là mở đường và tổ chức vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam và Hạ Lào; đồng thời, có nhiệm vụ bảo đảm vật chất và an toàn cho các lực lượng hành quân, bảo vệ hành lang chống địch tập kích bằng đường bộ và đường không, phối hợp và giúp đỡ các địa phương củng cố vùng giải phóng ở dọc hành lang. Bộ Tư lệnh 559 có ba lực lượng chính là: lực lượng mở đường mới, giữ gìn và sửa chữa đường cũ; lực lượng vận chuyển và giữ kho; lực lượng bảo vệ. Ngoài ra, còn có các lực lượng bảo đảm khác như: thông tin, quân y, sửa chữa... Quyết định trên đánh dấu bước phát triển mới của Đoàn 559, từ vận tải thô sơ chuyển sang vận tải cơ giới; từ quy mô cấp sư đoàn lên quy mô cấp quân khu với những nhiệm vụ chiến lược to lớn, vô cùng khó khăn, phức tạp trên một địa bàn rộng. Đầu năm 1967, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên được Bộ Quốc phòng điều làm Tư lệnh Đoàn 559 kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương. Đến năm 1968, Đoàn 559 đã có 25 binh trạm, 23 trung đoàn; quân số lên đến 80.000 người.
Chiến sĩ của tiểu đoàn Công binh 25, binh trạm 31, Bộ tư lệnh 559, đang dẫn đường cho xe quân sự tại ngã ba bắc Siêng Phan đi Xômpêng (Ảnh tư liệu)
Trong giai đoạn 1969-1972, mở rộng đường Hồ Chí Minh, góp phần đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ xâm lược. Tháng 7/1970, Bộ Tư lệnh 559 được đổi tên thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Các binh trạm được tổ chức thành các sư đoàn; gồm 08 sư đoàn, 01 đoàn chuyên gia, 16 trung đoàn trực thuộc, 06 binh trạm. Tháng 7/1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn được tổ chức thành: 05 Bộ Tư lệnh khu vực, 06 binh trạm trực thuộc, 06 trung đoàn công binh trực thuộc, 02 trung đoàn ô tô, 03 trung đoàn phòng không, 02 trung đoàn đường ống xăng dầu, 01 trung đoàn thông tin, 04 quân y viện và các cơ quan trực thuộc. Bộ Quốc phòng cho phép tăng thêm 61 tiểu đoàn, nâng tổng số lên 188 tiểu đoàn và tương đương trực thuộc các binh trạm; bổ sung 35.000 quân, nâng tổng quân số lên 92.000 người và đồng loạt ra quân mở “đường kín”. Đến cuối năm 1971, toàn tuyến đã mở được 1.190km đường kín. Vận chuyển trên đường kín đã trở thành xu thế chủ đạo trên đường Hồ Chí Minh, được Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Trường Sơn đánh giá rất cao, coi đó là một thành tựu có ý nghĩa chiến lược, tạo được thế bất ngờ đối với không quân địch. Hệ thống đường kín tiếp tục được phát triển, giao thông vận tải phục vụ kháng chiến của toàn miền Nam trong năm 1972 đã góp phần quan trọng tạo nên chiến thắng to lớn của quân và dân ta trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, buộc đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn phải ký Hiệp định Pari.
Trong giai đoạn 1973-1975, hoàn thiện thế trận đường Hồ Chí Minh, cùng cả nước tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Đầu năm 1973, mạng đường chiến lược đã được xây dựng, mở rộng trên địa bàn Tây Trường Sơn, về cơ bản vẫn là tuyến đường đất, chỉ bảo đảm vận chuyển được trong mùa khô; còn trên địa bàn Đông Trường Sơn, ta chưa có điều kiện mở đường qua Tây Nguyên. Để đáp ứng yêu cầu tăng khối lượng vận chuyển, tăng tốc độ xe chạy, tăng mật độ phương tiện nhằm tổ chức vận chuyển lớn, cơ động lớn và nhanh các binh đoàn chủ lực và binh khí kỹ thuật đến các hướng tác chiến, ta cần nhanh chóng xây dựng, phát triển, hoàn thiện mạng đường giao thông vận tải chiến lược phía Đông, Tây Trường Sơn. Mùa khô 1973-1974, lực lượng công binh được triển khai trên toàn tuyến làm nhiệm vụ xây dựng, khôi phục và bảo đảm đường vận chuyển. Giữa năm 1974, Bộ Tư lệnh Trường Sơn có tất cả 8 sư đoàn binh chủng, 20 trung đoàn và tương đương trực thuộc, hàng chục tiểu đoàn trực thuộc các cục nghiệp vụ; tổng quân số lên đến 100.495 người, trong đó có 13.155 sĩ quan. Cuối năm 1974, tuyến vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh đã hoạt động cả mùa khô và mùa mưa, hình thành một hệ thống đường chiến lược nối liền từ hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường, bảo đảm cho tất cả loại binh khí kỹ thuật cơ động trong đội hình hành quân của các quân đoàn, binh chủng hợp thành ra trận.
Chiến sỹ công binh vật lộn với dòng nước xiết để bắc cầu cho xe vào chiến trường (Ảnh tư liệu)
Từ khi ra đời cho đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 toàn thắng, đường Hồ Chí Minh không ngừng được mở rộng, kéo dài, ngày càng phát triển, vươn sâu tới các chiến trường, các hướng chiến lược, chiến dịch. Đến cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, đường Hồ Chí Minh đã mở rộng, vươn dài tới Lộc Ninh (Bình Phước) với tổng chiều dài gần 17.000km đường cho xe cơ giới (gồm 05 trục dọc, 21 trục ngang); đường giao liên dài trên 3.000km; đường ống dẫn xăng dầu gần 1.400km; cùng với hệ thống đường vòng tránh, đường sông, đường thông tin liên lạc. Trên mọi nẻo đường, hệ thống cung trạm, binh trạm, kho tàng, bến bãi, trạm bảo dưỡng sửa chữa xe máy... được xây dựng trong một thế trận ngày càng hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của chiến trường. Những đóng góp nổi bật của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế vẻ vang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho các chiến trường. Hệ thống đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn ngày càng hoàn chỉnh, sức người, sức của đưa vào chiến trường miền Nam ngày càng tăng. Tính chung trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ đội Trường Sơn đã vận chuyển chi viện cho các chiến trường trên 1,5 triệu tấn hàng hóa và 5,5 triệu tấn xăng dầu, bảo đảm cho hơn 1,1 triệu lượt cán bộ, chiến sĩ đi vào chiến trường miền Nam và các hướng mặt trận lớn, đưa hơn 650.000 lượt cán bộ, chiến sĩ từ các chiến trường về hậu phương miền Bắc, trong đó có gần 310.000 thương binh, bệnh binh. Không chỉ là tuyến vận chuyển sức người và hàng hóa từ hậu phương ra tiền tuyến, Trường Sơn còn có một vị trí chiến lược quan trọng như là “xương sống” ở bán đảo Đông Dương, là nơi “đứng chân” của các binh đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng, kỹ thuật; là vùng hậu phương trực tiếp của các chiến trường, là bàn đạp xuất kích đã được chuẩn bị sẵn cho các binh đoàn chủ lực tiến công ra các hướng chiến dịch, chiến lược quan trọng.
Trong suốt 16 năm, Bộ đội Trường Sơn đã phát huy vai trò to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện từ hậu phương lớn cho các chiến trường miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, góp phần to lớn làm nên cuộc Tiến công chiến lược năm 1972, chiến thắng Đường 9 - Nam Lào. Đặc biệt, từ năm 1973 đến 1975, Bộ đội Trường Sơn đã nỗ lực vượt bậc, ra sức xây dựng, tu sửa, nâng cao chất lượng cầu đường đáp ứng yêu cầu của thời cơ chiến lược mới trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Chấp hành nghiêm mệnh lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh, quán triệt phương châm “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, Bộ đội Trường Sơn đã nhanh chóng tổ chức vận chuyển từng binh đoàn chủ lực lớn của quân đội ta, đưa một khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật lớn tới chiến trường miền Nam; luôn bám sát các mũi tiến công của bộ binh, vừa tháo gỡ bom mìn, vừa nhanh chóng sửa chữa, bắc lại cầu mới cho quân ta tiến vào giải phóng các thành phố, thị xã và giải phóng Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Bộ đội Trường Sơn là lực lượng nòng cốt trên đường Trường Sơn - chiến trường tổng hợp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Để đánh bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, thực hiện thắng lợi phương châm “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, quân dân ta trên đường Trường Sơn luôn gắn liền vận chuyển với chiến đấu, chiến đấu là điều kiện tiên quyết để vận chuyển thắng lợi. Trên từng cung đường, mỗi chiến công của nhiệm vụ vận tải luôn đi cùng với những thành tích đánh địch bảo vệ đường, kho, trạm. Các lực lượng ta ở Trường Sơn còn tích cực, chủ động thực hiện nhiều chiến dịch lớn, đập tan chiến lược “chiến tranh ngăn chặn” của đế quốc Mỹ. Bộ đội Trường Sơn từ một đơn vị nhỏ bé ban đầu đã trưởng thành nhanh chóng, bao gồm đủ các lực lượng: công binh, vận tải (ô tô, đường sông, đường ống), phòng không - không quân, bộ binh, giao liên, thông tin, hóa học, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến… thực sự trở thành một chiến trường tổng hợp, tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng trên quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi viện cho các chiến trường. Với tinh thần “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Máu có thể đổ, đường không thể tắc”, bộ đội và dân công hỏa tuyến Trường Sơn đã bảo đảm giao thông thông suốt trong mọi tình huống.
Trên mặt trận Trường Sơn, các lực lượng, các quân, binh chủng, nòng cốt là Bộ đội Trường Sơn đã trực tiếp tổ chức thế trận đánh địch tại chỗ, bên cạnh đó Bộ đội Trường Sơn còn phối hợp với bộ đội chủ lực trên các chiến trường thực hiện nhiều chiến dịch lớn làm thất bại kế hoạch “ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc” của đế quốc Mỹ, giữ vững tuyến vận tải huyết mạch, đáp ứng yêu cầu chi viện ngày càng tăng của tiền tuyến miền Nam, chiến trường Lào, Campuchia. Trong 16 năm, các lực lượng trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn đã chiến đấu trên 2.500 trận, diệt gần 17.000 tên địch, bắt 1.200 tên, gọi hàng trên 10.000 tên, bắn rơi 2.455 máy bay địch, phá hủy hàng vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh khác của địch. Để giành thắng lợi vẻ vang đó, hơn 2,0 vạn cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong đã hy sinh, gần 3,0 vạn người bị thương, hàng nghìn người bị ảnh hưởng nặng nề chất độc da cam của địch. Biết bao bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, đồng bào các dân tộc đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình để giữ vững mạch máu giao thông trên con đường huyền thoại này.
Hoạt động tác chiến, mở đường của Bộ đội Trường Sơn đã góp phần quan trọng cho sự phát triển nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo, sáng tạo. Lần đầu tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, một tuyến đường vận tải chiến lược được xây dựng hoàn chỉnh để chi viện cho chiến trường với sự đa dạng về thành phần lực lượng và hoạt động tác chiến. Cùng với sự phát triển liên tục của công tác vận tải chi viện cho chiến trường, nghệ thuật quân sự trên chiến trường Trường Sơn luôn có sự sáng tạo và phát triển. Việc tổ chức, xây dựng lực lượng và kết hợp các phương thức đấu tranh, phương thức vận chuyển trên đường Trường Sơn là một thành công lớn trong chỉ đạo chiến lược, bước phát triển độc đáo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh. Đó là nghệ thuật tổ chức lực lượng, tổ chức thế trận, tổ chức hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, điều hành, tổ chức mạng đường và hệ thống binh trạm, cung trạm, kho tàng, bến bãi; nghệ thuật đánh địch, mở đường, bảo đảm hành quân, bảo đảm giao thông, bảo đảm vận chuyển... Đó là nghệ thuật tiến hành công tác đảng, công tác chính trị để xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua mọi gian khổ hy sinh để làm nên những kỳ tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần cùng toàn dân, toàn quân giành thắng lợi vĩ đại, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975).
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta giành thắng lợi, Bộ đội Trường Sơn chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Phát huy truyền thống Bộ đội Trường Sơn, với tinh thần cách mạng tiến công, cán bộ, chiến sĩ, công nhân và viên chức quốc phòng Binh đoàn 12 lại có mặt ở những nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa, trải rộng trên địa bàn 21 tỉnh, thành phố trong nước và 05 tỉnh của nước bạn Lào. Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Bộ đội Trường Sơn anh hùng, sau 35 năm (1989-2024) phát triển trưởng thành, với nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, tự hoạch toán kinh doanh, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ kỹ thuật có kinh nghiệm thực tiễn và bản lĩnh chính trị vững vàng đã giúp cho Tổng công ty từng bước vượt qua giai đoạn đầu đầy khó khăn, thử thách, không ngừng phát triển lớn mạnh; giá trị sản xuất hàng năm tăng khá, đặc biệt năm 2023 tăng 87% so với năm 2022 tăng gấp 2,5 lần so với năm 2019; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách nhà với Nhà nước. Đến nay, Binh đoàn 12 đã trở thành một trong những tổng công ty mạnh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, giao thông cầu đường, thủy điện, thủy lợi; có đủ khả năng xây dựng các công trình trọng điểm có quy mô lớn trong nước và quốc tế. Nhiều công trình tầm vóc trọng điểm quốc gia trên khắp mọi miền Tổ quốc được Binh đoàn 12 thi công. Quá trình xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, Binh đoàn 12 là đơn vị kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của Bộ đội Trường Sơn anh hùng. Bộ đội Trường Sơn vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương, huy chương các loại...
Kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn là dịp để chúng ta bày tỏ lòng thành kính tri ân sâu sắc đối với các thế hệ cha anh đã một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”; mãi khắc ghi công lao to lớn của Bộ đội Trường Sơn, dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong, công nhân giao thông, văn nghệ sĩ, đồng bào các dân tộc đã từng tham gia, phục vụ chiến đấu làm nên con đường huyền thoại Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chi Minh. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng và phẩm chất cao quý của Bộ đội Trường Sơn, chúng ta nguyện ra sức thi đua học tập, lao động, sản xuất và chiến đấu góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2020-2025 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Lê Sơn