Lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” của QĐND VN tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, ngày 07/5/1954 |
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh. 69 năm đã đi qua, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vẫn mãi là bản anh hùng ca tuyệt vời về tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân đội và nhân dân ta; sức mạnh của trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời, phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn. Đó là thắng lợi vĩ đại của Nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là nhân tố quyết định làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ. Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách mạng đúng đắn.
Với quyết tâm giành thắng lợi, Đảng ta thông qua phương án tác chiến mùa xuân năm 1954, trong đó xác định: Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kích lớn nhất từ trước tới nay. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã mở 03 đợt tiến công. Sau mỗi đợt tiến công, tinh thần chiến đấu của quân dân ta lại càng thêm hăng hái, thế và lực lại được tăng cường và vững mạnh hơn. Trong đợt tiến công lần thứ 3, chỉ trong vòng 07 ngày, quân đội ta với sức mạnh áp đảo, tiến công tiêu diệt những cứ điểm còn lại. Sau 56 ngày đêm chiến đấu, phục vụ chiến đấu và anh dũng hy sinh, với sự phối hợp chi viện của chiến trường cả nước bằng tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, chiều ngày 07/5/1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị đập tan, toàn bộ 16.200 quân địch do tướng De Castries chỉ huy bị tiêu diệt và bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa to lớn, là sự kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó, quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, của ý chí quyết chiến, quyết thắng và sức mạnh của Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân ba nước Đông Dương và sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn bè quốc tế; kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 09 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945; làm cơ sở quyết định cho cuộc đấu tranh ngoại giao thắng lợi ở Hội nghị Genève; cổ vũ phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Trong thắng lợi chung của chiến thắng Điện Biên Phủ có sự đóng góp không nhỏ của quân và dân cả nước, trong đó có quân và dân Biên Hòa - Đồng Nai. Đặc biệt là kỹ thuật đánh đặc công xuất phát từ Chiến khu Đ sau đó phát triển ra cả nước, đã góp phần tiêu diệt các cứ điểm vững chắc của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Năm 1950, trong hội nghị tổng kết chiến tranh do Bộ Tư lệnh Nam bộ tổ chức, để gọi tên một cách đánh mới và những chiến sĩ làm nhiệm vụ đánh diệt tháp canh, đồn bót của thực dân Pháp, bộ đội đặc công xuất hiện từ đó. Cách đánh đặc công hình thành trên cơ sở chiến tranh du kích phát triển cao đã được sử sách ghi nhận nơi xuất phát là Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Bình Dương) đơn vị đầu tiên thực hành cách đánh này là Đội Du kích Tân Uyên[1]. Đại đội Nguyễn Văn Nghĩa của Tân Uyên được công nhận là đơn vị đặc công đầu tiên.
Đầu năm 1952, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông cử 10 cán bộ do đồng chí Lê Đức Anh, tham mưu trưởng Phân liên khu dẫn đầu bảo vệ đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Trung ương Cục ra Trung ương. Trên đường đi, đoàn (gồm Trần Thắng Nê, Nguyễn Hữu Liêm, Nguyễn Đôi) đã phổ biến kinh nghiệm chiến đấu đặc công ở Bình Thuận (Khu 6) vào tháng 6/1952. Đến tháng 9/1952, đoàn mở lớp huấn luyện đặc công cho bộ đội Khu 5 ở Quảng Nam. Năm 1953, tổ đặc công miền Đông ra Bắc bộ. Tháng 9/1953, hai đồng chí Nguyễn Đôi và Trần Thắng Nê mở lớp huấn luyện đầu tiên về lối đánh đặc công ở xã Dân Chủ, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Sau đó, hai đồng chí mở tiếp lớp huấn luyện cho 70 cán bộ, chiến sĩ ở các Sư đoàn: 308, 312, 316, trung đoàn 126, các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Phúc Yên, Quảng Yên.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, các chiến sĩ đặc công miền Đông đã tiến công các sân bay Đồ Sơn, Cát Bi (Hải Phòng), Gia Lâm (Hà Nội), góp phần chia lửa với chiến trường chính. Đồng thời, theo chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Chỉ huy chiến dịch, tổ giáo viên, huấn luyện viên đặc công của miền Đông đã tổ chức lớp huấn luyện các đội dũng sĩ để đánh diệt các cứ điểm quân sự (trong đó có cứ điểm đồi A1), diệt xe tăng, pháo binh địch, hợp đồng chặt chẽ với bộ binh diệt địch đạt hiệu quả, góp phần vào thắng lợi chung của Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, các chiến sĩ đặc công đã có những đóng góp nhất định vào thắng lợi chung. Đồng thời qua Chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng đặc công càng có thêm thực tiễn sinh động để rèn luyện và nâng cao kỹ chiến thuật, phối hợp tác chiến để tiếp tục giành thắng lợi vang dội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần vào thắng lợi chung giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975). Từ miền Đông, Chiến khu Đ, cách đánh đặc công của Biên Hòa đã phát triển ra cả nước và phát triển thành binh chủng đặc công của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ngày 19-3-1967 thành lập Binh chủng Đặc công đặc biệt tinh nhuệ./.
Lê Huy Dương
[1] Sau nhiều ngày nắm quy luật địch, đêm 18 rạng ngày 19/3/1948, tổ du kích Tân Uyên do đồng chí Trần Công An (tức Hai Cà) chỉ huy đã bí mật vượt hàng rào, tiếp cận tường tháp canh cầu Bà Kiên (Tân Uyên). Các đồng chí dùng thang leo lên tường tháp, dùng lựu đạn đánh vào cả 03 tầng tháp canh. Ta diệt 14 lính gác, thu 12 súng và 08 lựu đạn.