Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết là một hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp về tuyên truyền vận động, tập hợp, tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế phục vụ sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bác đã nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”[1]
Có thể thấy Hồ Chủ tịch đã xác định rõ vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Xuất thân trong một gia đình nho giáo yêu nước, Bác Hồ đã tiếp thu có chọn lọc quan điểm của các bậc tiền nhân và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chế độ xã hội mới, Người đã xác định đại đoàn kết là vấn đề chiến lược, chiến lược tập hợp lực lượng cách mạng, đây không phải là một sách lược tập hợp lực lượng để phục vụ mục đích tức thời, càng không phải một thủ đoạn chính trị. Người khẳng định “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”[2]. Bác Hồ đã chỉ rõ: đoàn kết là lực lượng mạnh nhất; đoàn kết là sức mạnh vô địch; đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định “Nhờ đại đoàn kết mà Nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm Cách mạng Tháng Tám thành công và đã kháng chiến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt Nam chúng tôi nhất định sẽ thống nhất”[3]
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, có thể và cần thiết có sự điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đoàn kết phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng, là một chiến lược nhất quán và xuyên suốt.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, từ khi Đảng ra đời đến nay, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn thực hành đường lối đoàn kết nhất quán, đúng đắn, với hình thức tổ chức phù hợp nên đã phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, của quốc tế, tạo thành sức mạnh to lớn cho cách mạng.
Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng tư tưởng của Người trong điều kiện hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã ghi rõ “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”. Khơi dậy tiềm năng và phát huy cao độ các nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất. Đảng cũng đề ra các giải pháp thực hiện, cụ thể:
Một là, giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích: Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức phải xuất phát từ lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
Hai là, xây dựng những chính sách nhằm phát huy sức mạnh toàn dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Phát triển giai cấp công nhân; đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn; định hướng, quản lý tốt hoạt động của các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp; phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng đội ngũ tri thức, phát triển đội ngũ doanh nhân, bồi dưỡng thế hệ trẻ, phát triển toàn diện phụ nữ, phát huy cựu chiến binh, cán bộ công an hưu trí, người cao tuổi.[4]
- Thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng: Các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam đều bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển; ưu tiên đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số theo tư tưởng Hồ Chí Minh “để miền núi tiến kịp miền xuôi”. Tuyên truyền vận động, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống "tốt đời đẹp đạo", đóng góp tích cực cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quan tâm vấn đề bảo vệ công dân, hỗ trợ để đồng bào Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại.
- Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền lợi của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
- Phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; nêu ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; tăng cường và mở rộng ngoại giao nhân dân. Xây dựng “thế trận lòng dân”, phát huy sức mạnh Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, H2011, t.13, tr 120.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, H2011, t.9, tr 244.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, H2011, t.11, tr 272.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, H2021, t.I, tr.165-167.
Ngọc Ánh