Tuyên ngôn Độc lập kết tinh giá trị truyền thống yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc và tinh hoa thời đại

01/09/2024 15:22:28 347      Chọn cỡ chữ A a  

Cách đây 79 năm, tại Quảng trường Ba Đình, ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Cùng với “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt (bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên) và “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai), Bản Tuyên ngôn Độc lập - áng “thiên cổ hùng văn” là văn kiện khẳng định và kết tinh truyền thống yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và kết tinh những giá trị thời đại sâu sắc.

Tuyên ngôn Độc lập ra đời trong bối cảnh, sau khi phát xít Nhật chuẩn bị đầu hàng đồng minh, Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã gấp rút thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và ra Quân lệnh số 1. Ngày 14/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập để quyết định tổng khởi nghĩa. Đại hội quốc dân ngày 16/8/1945 thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, định Quốc kỳ, Quốc ca. Trong thời gian này, mặc dù đang ốm nặng nhưng lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn đôn đáo với mọi công việc và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giành chính quyền trên phạm vi cả nước, Người nói: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”. Đó là kết tinh ý chí của toàn Đảng và khát vọng độc lập của cả dân tộc. Ngày 19/8/1945, tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội, tiếp đó là Huế (ngày 23/8/1945) và Sài Gòn (ngày 25/8/25/1945) cùng các địa phương khác giành chính quyền về tay Nhân dân.

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” (Ảnh tư liệu)

Tối 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội, Người cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng gấp rút chuẩn bị các công việc cho lễ Tuyên ngôn độc lập, đồng thời, xúc tiến việc cải tổ Ủy ban Dân tộc giải phóng thành Chính phủ lâm thời và công bố danh sách thành viên Chính phủ cho các cơ quan báo chí, chuẩn bị dựng lễ đài và các công việc liên quan. Từ ngày 28/8/1945, tại chiếc bàn ăn trên gác hai, nhà số 48 phố Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung tinh thần, trí tuệ và tình cảm để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập; đến ngày 31/8/1945, bản Tuyên ngôn Độc lập đã được Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí thông qua trước khi công bố trước toàn thể Nhân dân Việt Nam và toàn thế giới vào ngày 02/9/1945. Nhớ lại về những ngày soạn thảo bản Tuyên ngôn, Người nói “Đó là những giây phút sung sướng nhất của đời mình”. Đây là kết quả của một quá trình tư duy khoa học độc đáo và thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều đó, càng khẳng định rõ ràng và nhất quán một chân lý hết sức giản dị nhưng có tầm khái quát cao là: Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng như trí tuệ sắc sảo của Người mãi mãi soi sáng con đường chúng ta đi. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời tiến ra lễ đài. Thay mặt cho Chính phủ, Hồ Chí Minh - Chủ tịch Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới nước Việt Nam đã giành được độc lập.

Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh những tinh hoa đã được khẳng định trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại, đó là bản Tuyên ngôn độc lập Nhân quyền của nước Mỹ và Tuyên ngôn Dân quyền của nước Pháp. Đó là văn kiện pháp lý thấm nhuần tư tưởng tiến bộ của thời đại, nêu cao nguyên tắc bình đẳng, dân chủ và các quyền cơ bản của con người, của dân tộc. Trân trọng những giá trị cao cả ấy, trong một thời đại mới và một cuộc cách mạng mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và hơn nữa phát triển các giá trị ấy ở hai nội dung cơ bản là quyền con người, quyền dân tộc và nguyên tắc chủ quyền nhân dân. Mở đầu Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 được ra đời từ sau cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và cuộc đại cách mạng tư sản Pháp. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ thời kỳ Khai sáng, hai bản Tuyên ngôn là những lời khẳng định đầy sức thuyết phục về quyền con người, quyền dân tộc, về nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến chuyên chế hướng con người vươn tới các giá trị dân chủ, giá trị nhân văn cao cả về tự do, bình đẳng, bác ái. Các bản Tuyên ngôn khẳng định những quyền con người cơ bản nhất đó là quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền tư hữu tài sản. Đó là “quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng và bất khả xâm phạm của mỗi con người”[1].

Bản Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ đã khẳng định các nước thuộc địa phải có quyền là quốc gia tự do và độc lập và từ việc xóa bỏ quyền thống trị của thực dân Anh, cuộc đấu tranh vì nền độc lập của các bang thuộc địa ở Bắc Mỹ cũng nhằm tới tranh đấu cho các quyền tự nhiên của riêng mỗi con người. Với những giá trị to lớn như vậy hai bản Tuyên ngôn đánh mốc dấu son trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Đó là bản Tuyên ngôn mang đậm giá trị nhân văn, nhân bản, là nền tảng để xây dựng các bản Hiến pháp dân chủ tiến bộ của nước Pháp, nước Mỹ sau đó. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nêu rõ: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”[2]. Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam, từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những câu nổi tiếng nhất trong hai bản Tuyên ngôn lịch sử đó với thái độ rất trân trọng “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền  ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ những giá trị nhân văn cao cả, mang tính phổ quát toàn nhân loại làm cơ sở, mục tiêu cho cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cũng là nhằm thực hiện những quyền chính đáng, thiêng liêng không ai có thể xâm phạm, không phân biệt màu da, chủng tộc, dòng giống, giới tính. Đây là những quyền mang tính phổ quát của nhân loại, là sự tiếp nối của lá cờ giải phóng dân tộc, giải phóng con người mà các cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ đã giương cao. Trên cơ sở viện dẫn các bản tuyên ngôn đó, Người đã có sự kế thừa, phát triển vượt bậc, “suy rộng ra” từ quyền của cá nhân thành quyền của cả dân tộc trong thời đại mới, Người chỉ rõ: “Các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[3]. Từ quyền con người, Người suy rộng ra quyền dân tộc cũng là quyền tự nhiên, thiêng liêng “là lẽ phải không ai chối cãi được”[4]. Đây là sự phát triển sáng tạo trong tư duy của Người, thể hiện tầm nhìn mang tính thời đại. Theo đó, quyền của mỗi cá nhân con người không tách rời mà hòa quyện với quyền của quốc gia dân tộc.

Các quyền này là lẽ tự nhiên, vì thế nếu thực dân Pháp tiến hành xâm lược, áp đặt lại ách thống trị trên đất nước Việt Nam là đi ngược lại lẽ tự nhiên, đi ngược lại và chà đạp lên những quyền tự do, bình đẳng, bác ái mà cha ông họ đã hùng hồn tuyên bố và theo đuổi. Hành động xâm lược đó là phi nghĩa. Với lời lẽ giản dị, rõ ràng nhưng đanh thép, tuyên ngôn khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Tuyên ngôn Độc lập kết thúc bằng quyết tâm sắt đá: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. 

Bản Tuyên ngôn độc lập tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung bất hủ không chỉ có giá trị lịch sử đối với dân tộc Việt Nam mà đó còn là tinh hoa có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Tuyên ngôn độc lập là áng “thiên cổ hùng văn”, kết tinh “hồn cốt dân tộc” thể hiện giá trị trường tồn, truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam; là bản anh hùng ca mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên độc lập, tự do, góp phần tô thắm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc và làm phong phú về quyền tự quyết của các dân tộc trên thế giới - Quyền độc lập tự do.  

Đến nay, 79 năm đã trôi qua, giá trị của Tuyên ngôn độc lập vẫn nguyên vẹn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự thống nhất một cách biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc là nền tảng, là kim chỉ nam chiếu rọi cho con đường cách mạng Việt Nam hướng lên một tầm cao mới trong công cuộc đổi mới và hội nhập, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, tất cả vì mục tiêu cao cả: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuyên ngôn độc lập thực sự là dấu ấn lịch sử của Việt Nam, báo hiệu một thời đại mới - Thời đại các dân tộc bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới giành quyền sống, quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn độc lập đã chứa đựng chân lý phổ quát của nhân loại, thể hiện ý chí, tầm cao tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; truyền thống khát vọng của dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn trong hành trình lịch sử của dân tộc, trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngàn đời yêu dấu và rất đỗi tự hào.

-----

[1] Nguyễn Văn Út (2006), Chín bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế g(ới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.125.

[2], [3], [4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập (tập 4), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.1.

Lê Sơn

Bản in
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

    Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

  • Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

    Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

  • Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

  • Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

    Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

  • Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

  • Hôm nay:   18456
  • Tháng hiện tại:   1042939
  • Tổng lượt truy cập:   9898065