Friedrich Engels (Ăngghen) là nhà lý luận chính trị lỗi lạc, một triết gia và nhà khoa học nổi tiếng, một chiến sĩ cách mạng kiên cường và vị lãnh tụ thiên tài của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Ăngghen có vai trò to lớn trong kho tàng lý luận thế giới, nhất là đối với sự xây dựng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - học thuyết nền tảng tư tưởng khoa học và cách mạng, phát triển chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học cũng như phong trào công nhân và các Đảng Cộng sản trên thế giới. Những kinh nghiệm của Ăngghen trong đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác gợi mở cho việc đấu tranh phản bác lại các quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác và những đóng góp của Ăngghen của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong bối cảnh hiện nay. Kỷ niệm 203 năm Ngày sinh Ăngghen (28/11/1820-28/11/2023) là dịp để bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân sâu sắc về sự thông thái, tấm gương nhân hậu, thủy chung, khiêm nhường, vai trò to lớn trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN), xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), gợi mở bài học để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.
Ph. Ăngghen (1820-1895) - Nhà lý luận lỗi lạc và chiến sĩ cách mạng vĩ đại (Ảnh tư liệu)
1. Bối cảnh đưa Ăngghen gắn bó với sự phát triển chủ nghĩa Mác
Ăngghen sinh ngày 28/11/1820 trong một gia đình quý tộc ở thành phố Barmen, tỉnh Rhein, Vương quốc Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức). Tuy xuất thân từ một dòng tộc tư bản công nghiệp giàu có nhưng Ăngghen đã dành tất cả con tim, khối óc, khát vọng, tình cảm và trí tuệ cho giai cấp vô sản; hiến dâng toàn bộ cuộc đời để bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác. Đây được xem là vũ khí trang bị cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản quốc tế, đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Từ khi còn nhỏ, người cha vô cùng nghiêm khắc và đe dọa trừng phạt nhưng không thể làm cho Ăngghen phục tùng mù quáng. Ông sớm bộc lộ tư duy và tính cách độc lập trong việc thấu hiểu bức tranh đa dạng sự bần cùng, bế tắc, không lối thoát của người dân lao động và sự giàu có của các nhà tư bản hình thành trên sự nghèo đói của công nhân như thế nào. Chính sự tàn bạo của chế độ chuyên chế và sự chuyên quyền của bọn quan lại ở Phổ đã góp phần thức tỉnh rất sớm ý thức chính trị, sự căm thù chế độ áp bức, bóc lột của Ăngghen, nên ông muốn đứng trong hàng ngũ của những người có lý tưởng nhân đạo, muốn hoạt động để xóa bỏ sự nghèo nàn, tủi nhục. Ăngghen hứng thú với việc tự học và nghiên cứu lịch sử, triết học, văn học, ngôn ngữ, thơ ca, báo chí,…
Từ năm 1939, Ăngghen bị hấp dẫn và ảnh hưởng bởi tư tưởng về sự vận động tiến lên những hình thái cao hơn trong lịch sử loài người trong các tác phẩm của Hégel (Hêghen) nhưng Ăngghen đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng cơ bản trong phép biện chứng của Hêghen vào thực tiễn cuộc sống, luôn có quan điểm biện chứng đối với lịch sử loài người và các hiện tượng của đời sống xã hội. Từ năm 1841, Ăngghen đến Berlin, gia nhập binh đoàn pháo binh và lui tới trường Đại học Tổng hợp Berlin để nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Chính những kiến thức thực tiễn đã giúp Ăngghen phát triển và bảo vệ tư tưởng về sự thống nhất của thế giới, tư tưởng về sự tất yếu nội tại và tính quy luật của chủ nghĩa duy vật trở nên biện chứng. Từ cuối năm 1842, Ăngghen sang nước Anh và lần đầu tiên gặp gỡ với Karl Marx (Mác) - Tổng Biên tập báo Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Bài báo Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh (1842) cùng với những bài báo khác của Ăngghen viết ra năm đó đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: Giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ăngghen nhận định “không thể xóa bỏ được mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản” và kết luận rằng “đằng sau cuộc đấu tranh của các đảng phái ẩn giấu cuộc đấu tranh của các giai cấp”.
Chính cuộc gặp gỡ định mệnh với Mác và những hoạt động tại Anh đã giúp Ăngghen trở thành nhà XHCN, thực hiện khát vọng về giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi áp bức, bất công,… Từ đây, Ăngghen và Mác trở thành những người bạn, đồng chí gần gũi, thân thiết, có cùng chí hướng, gắn bó với nhau suốt cả cuộc đời để cùng xây dựng lên các học thuyết định hướng cho hoạt động của giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột. Ăngghen và Mác đã trở thành những chiến sĩ, những người đồng chí, những lãnh tụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh vì hòa bình, vì sự tiến bộ xã hội.
2. Vai trò to lớn của Ăngghen trong bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
Năm 1844, tác phẩm đầu tiên mở đầu cho tư duy phê phán của Ăngghen là “Phê phán chính trị kinh tế học” được đăng trên tờ “Niên giám Pháp - Đức” đã xem xét những tư tưởng về chính trị, kinh tế của các nhà tư tưởng cùng thời. Tác phẩm này có nhiều điểm tương đồng về lập trường và tư tưởng với Mác; được Mác đánh giá rất cao và coi đây là “một cuốn đại cương tài tình về khoa học chính trị của giai cấp vô sản” - Cơ sở hình thành tình bạn vĩ đại giữa Ăngghen và Mác. Ăngghen đồng hành cùng với Mác viết chung các tác phẩm tiêu biểu như: “Gia đình thần thánh” (1845), “Hệ tư tưởng Đức” (1846), “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” (1851-1852),… Ngoài ra, Ăngghen còn tự tìm cho mình một hướng nghiên cứu riêng là khoa học tự nhiên, nâng cao khả năng ngoại ngữ và là tác giả của một số tác phẩm nổi tiếng như: “Biện chứng của tự nhiên” (1873-1883), “Tác dụng của lao động trong việc chuyển biến từ vượn thành người” (1876), “Chống Đuyrinh” (1877), “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước” (1883), “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung và triết học cổ điển Đức” (1888),... Trong các tác phẩm của mình, Ăngghen thể hiện rõ lập trường, tư tưởng trong bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trên những phương diện cơ bản về xây dựng, bổ sung, phát triển và đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác.
2.1. Vai trò của Ăngghen trong xây dựng, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác
Ăngghen đã xây dựng và phát triển chủ nghĩa Mác trên cả ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học, CNXH khoa học. Trong lĩnh vực triết học, cũng như Mác, Ăngghen tuy xuất thân từ phái Hêghen trẻ nhưng ông có công lao to lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng thông qua những nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật. Mặc dù khẳng định những quan điểm duy vật lịch sử là một trong hai phát kiến vĩ đại của Mác, nhưng Ăngghen cũng có công rất lớn trong việc cung cấp những luận chứng thuyết phục để chứng minh tính chất duy vật triệt để của học thuyết Mác trong lĩnh vực lịch sử, xã hội; làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và là “công cụ nhận thức vĩ đại” của con người. Đặc biệt, bằng việc chỉ ra những quy luật của giới tự nhiên, Ăngghen không chỉ khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới mà còn làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Từ đó, Ăngghen đã cùng với Mác xây dựng được một hệ thống lý luận triết học hoàn chỉnh với những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong lĩnh vực kinh tế chính trị học, Ăngghen đã chứng tỏ là một nhà kinh tế học xuất sắc khi chỉ ra được những quy luật vận động của nền kinh tế TBCN, bóc trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất TBCN. Đặc biệt, khi giúp Mác hoàn thành nốt những tập bản thảo còn dang dở của bộ “Tư bản”, Ăngghen cũng góp phần quan trọng trong việc luận giải những tư tưởng lớn của Mác về đặc trưng của nền kinh tế TBCN.
Trong lĩnh vực CNXH khoa học, với những trải nghiệm trong thời gian dài ở các nước Anh, Pháp, Đức cùng thời gian cộng tác với Mác, Ăngghen đã tạo lập và hoàn thiện những quan điểm về CNXH khoa học, mà linh hồn của lý luận đó là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân - giai cấp có khả năng tổ chức và lãnh đạo xã hội thông qua đảng cộng sản, tiến hành cải biến xã hội từ xã hội TBCN sang xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi từng nước và trên toàn thế giới. Nhờ có lý luận này, giai cấp công nhân đã từng bước bước lên vũ đài chính trị và xác lập được vai trò to lớn của mình. Ăngghen cùng với Mác có công lao trong việc cung cấp những luận cứ thuyết phục để biến CNXH từ không tưởng trở thành CNXH khoa học. Vì vậy, “những chiến lược, sách lược cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và sự hình thành các chính đảng vô sản mà Ăngghen đưa ra trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng của ông là một cống hiến lớn vào kho tàng CNXH khoa học”[1]. Có thể nói, “chủ nghĩa Mác trên tất cả các phương diện cấu thành của nó, từ nội dung đến phương pháp, từ những mầm mống đầu tiên đến khi có một diện mạo trưởng thành, từ những luận chiến đanh thép để tự bảo vệ trước những đòn tấn công, xuyên tạc của kẻ thù cho đến những tổng kết thực tiễn đặc sắc và những dự báo khoa học về xã hội tương lai đều in đậm dấu ấn những đóng góp kiệt xuất của Ăngghen”[2].
Ăngghen không chỉ có vai trò xây dựng chủ nghĩa Mác mà còn có vai trò bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn đã có nhiều thay đổi. Cũng như Mác, Ăngghen luôn khẳng định hệ thống lý luận do các ông xây dựng lên có tính phê phán. Tính phê phán đó không chỉ bao hàm sự phê phán đối với các nhà tư tưởng có quan điểm phiến diện, sai lầm về thế giới khách quan, mà còn bao hàm cả sự phê phán đối với chính tư tưởng của các ông qua mỗi thời kỳ lịch sử. Do đó, Ăngghen không bao giờ coi lý luận của mình cũng như của Mác là học thuyết hoàn hảo, là chân lý vĩnh hằng và buộc mọi người phải rập khuôn, sao chép, mà luôn đòi hỏi phải phát triển lý luận ấy thông qua nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Điển hình như trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Ăngghen và Mác chỉ rõ, nếu được viết lại thì cũng cần bổ sung và yêu cầu những người cộng sản “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”[3]. Đó là lý do giải thích tại sao trong khoảng hơn 20 năm (1872-1893), Ăngghen cùng Mác đã 7 lần viết “Lời tựa” cho những lần tái bản tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
Sau khi Mác qua đời năm 1883, Ăngghen là người tiên phong đi đầu đứng tên cho những “Lời tựa” cho những lần xuất bản kế tiếp của “Tuyên ngôn” nhằm bổ sung, phát triển tư tưởng của “Tuyên ngôn” trên quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể và phát triển, làm cho “Tuyên ngôn” trở thành tác phẩm kiểu mẫu của việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn sinh động.
2.2. Vai trò của Ăngghen trong việc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, cũng như Mác, Ăngghen nhiều lần bị chính quyền tư sản các nước trục xuất, kiện ra tòa vì tội “nói xấu”, “phỉ báng” chính quyền. Không chỉ có vậy, tư tưởng của các ông luôn bị chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại xuyên tạc, bôi nhọ, phản bác. Vì vậy, bên cạnh việc viết những tác phẩm có tính chất tuyên ngôn hay chính sự, lý luận thuần túy, Ăngghen còn viết một số tác phẩm bút chiến để vạch trần các luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của những kẻ cơ hội, tư sản, trong đó, tiêu biểu nhất là tác phẩm “Chống Đuyrinh”. Với tác phẩm này, Ăngghen đã trình bày một cách có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác và qua đó, không chỉ nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác, mà còn phát triển nó lên một tầm cao mới. Một điều đáng trân trọng là trong bất cứ điều kiện, tình huống nào, Ăngghen cũng luôn tuyệt đối trung thành với hệ tư tưởng mà ông và Mác đã xây dựng.
Ăngghen đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, mà còn thông qua hoạt động thực tiễn rất sôi nổi và tích cực trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cùng với Mác, Ăngghen đấu tranh không khoan nhượng chống lại những khuynh hướng cải lương và biệt phái (của Pruđông, Látxan, Bacunin...) để thống nhất hàng ngũ quốc tế cộng sản. Ngoài ra, Ăngghen là người đỡ đầu của Đảng Dân chủ Xã hội Đức và có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động của đảng này. Những nhà xã hội chủ nghĩa ở Pháp, Áo, Hunggary, Anh, Ba Lan, Tây Ban Nha, Italy, Nga, Hà Lan và ở nhiều nước khác đều nhận được sự giúp đỡ vô giá của Ăngghen. Vì vậy, đúng như V.I.Lênin nhận xét: “Sau bạn ông là Mác mất năm 1883, Ăngghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh”[4]. Từ những đóng góp to lớn của mình đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Ăngghen xứng danh là “người thầy vĩ đại” của giai cấp công nhân toàn thế giới.
Có thể thấy, Ăngghen không chỉ cùng Mác xây dựng nên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác, mà còn có công lao to lớn trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, bất chấp mọi sự xuyên tạc, công kích của các thế lực thù địch. Vì thế, không thể nói rằng: “Ăngghen chỉ là người đi sau Mác” hay “hệ thống lý luận chỉ được đứng tên Mác, không có tên Ăngghen”,… Những quan điểm đó là sự xuyên tạc, bóp méo và cố tình phủ nhận những công lao to lớn của Ăngghen đối với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác. Đúng như V.I. Lênin khẳng định: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăngghen”[5].
3. Kinh nghiệm của Ăngghen gợi mở bài học trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay
Việc Ăngghen đấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có nhiều nét tương đồng với cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Đó đều là cuộc đấu tranh của những người mác-xít nhằm bảo vệ những giá trị cốt lõi, bền vững của chủ nghĩa Mác. Nếu ở thời đại của Ăngghen, chủ nghĩa Mác chính là nền tảng tư tưởng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở nhiều nước châu Âu, thì ngày nay, chủ nghĩa Mác là cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Việc Ăngghen ra sức đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác đã để lại những bài học kinh nghiệm quý giá cho các thế hệ hôm nay và mai sau kế thừa và vận dụng vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Thứ nhất, trong bất cứ điều kiện và tình huống nào, phải luôn giữ vững lập trường, quan điểm mác xít, có thái độ kiên quyết, triệt để đối với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Thực tiễn cho thấy, ngay sau khi chủ nghĩa Mác ra đời, các phe phái phi mác xít liên tục tấn công bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Do đó, Ăngghen và sau này là V.I. Lênin luôn giữ vững lập trường của người cộng sản chân chính, đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng phi mác xít, bảo vệ chủ nghĩa Mác bằng mọi cách. Tinh thần đấu tranh đó cho thấy bản lĩnh kiên định, vững vàng của Ăngghen. Sự kiên định về lập trường tư tưởng cũng chính là ngọn lửa thử vàng, là nguyên tắc tối cao của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Nếu không có bản lĩnh ấy, chúng ta rất dễ bị lung lay bởi sự xuyên tạc, công kích của các thế lực thù địch. Thực tiễn hoạt động cách mạng của Ăngghen cho thấy, ông luôn có thái độ rõ ràng, cứng rắn, kiên định trước mọi sự tấn công của các phe phái phi mác-xít, nhất là của chủ nghĩa cơ hội dưới các hình thức khác nhau. Do đó, bất chấp các luận điệu công kích, xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là sau khi Mác qua đời, Ăngghen vẫn luôn giữ vững bản lĩnh kiên định của những người mác-xít chân chính. Sự kiên định đó của Ăngghen là bài học kinh nghiệm quý giá cho chúng ta trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Thứ hai, phải luôn kết hợp giữa việc khẳng định những giá trị đúng đắn, trường tồn với việc bổ sung, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin. Cũng như Mác, Ăngghen không coi lý luận do các ông xây dựng là hoàn chỉnh, là công cụ vạn năng, nên trong quá trình xây dựng hệ thống lý luận của mình, cả Mác và Ăngghen không ngừng bổ sung, phát triển những nguyên lý, luận điểm của hệ thống đó cho phù hợp với thực tiễn. Các ông cũng luôn kêu gọi những người mác xít khi vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác cần tránh tư tưởng dập khuôn, máy móc, giáo điều, bởi điều đó tất yếu dẫn đến những sai lầm. Kế thừa tinh thần đó của Ăngghen, để bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng ta, cần kết hợp cùng một lúc cả hai quá trình.
Một mặt, tiếp tục khẳng định, lan tỏa những giá trị cốt lõi, trường tồn của chủ nghĩa Mác- Lênin. Mặt khác, không ngừng bổ sung, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin cho phù hợp với thực tiễn. Đây là hai mặt của một nhiệm vụ, vừa là sự bảo vệ, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa bao hàm trong đó sự bổ sung, phát triển theo quan điểm biện chứng. Khi tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng ta coi sự kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin là bài học kinh nghiệm đầu tiên, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải luôn kiên định với chủ nghĩa Mác- Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động”[6]. Điều này tiếp tục được Đảng ta nhấn mạnh thêm ở Đại hội XIII: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây được coi là một trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”[7]. Nguyên tắc này là điều kiện tất yếu bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin không phải là “xét lại” hoặc “quy kết” nó như nhiều người lầm tưởng, mà là làm cho nó ngày càng “thêm da thêm thịt” và có thêm sức sống mới từ thực tiễn sinh động. Điều này đã được V.I.Lênin - Người kế tục xuất sắc sự nghiệp của Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”[8].
Cho đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua 37 năm tuy còn nhiều khó khăn, thử thách nhưng đã đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt, “các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”[9], “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn”[10]. Đây được nhận định là một trong những nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta. Tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng ta đã chỉ rõ, một mặt phải kiên định, vững vàng với nền tảng tư tưởng của Đảng; mặt khác phải không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới: “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời, không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam” [11].
Thứ ba, phải có nội dung và phương thức đấu tranh phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Ngay từ khi ra đời, chủ nghĩa Mác luôn vấp phải sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, với nhiều âm mưu, thủ đoạn khác nhau. Do đó, trong mỗi thời điểm, giai đoạn lịch sử, Ăngghen có những nội dung, cách thức đấu tranh khác nhau để bảo vệ chủ nghĩa Mác. Khi thì ông đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận bằng những tác phẩm luận chiến, bút chiến; lúc lại đấu tranh bằng hoạt động thực tiễn khi lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thông qua tổ chức Quốc tế Cộng sản. Vì thế, song song với quá trình xây dựng, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác là quá trình Ăngghen hoạt động thực tiễn cách mạng, giúp cho những nguyên lý của chủ nghĩa Mác ngày càng thâm nhập vào đời sống của giai cấp công nhân, trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình và lợi ích của nhân dân lao động.
Quá trình đấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác của Ăngghen gợi mở cho chúng ta một bài học kinh nghiệm quý giá, đó là cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay cũng cần có những nội dung, phương thức phù hợp với từng thời điểm, giai đoạn nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vậy, ngoài hình thức đấu tranh truyền thống (viết bài đăng tải trên các sách, báo, tạp chí), chúng ta cần bổ sung những hình thức đấu tranh khác như, đấu tranh trên không gian mạng bằng những bài viết lý luận chuyên sâu hoặc xây dựng những tin, bài, video, clip, hình ảnh… để đăng tải trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Cùng với đó, phải đoàn kết, tập hợp lực lượng ở trong Đảng và ngoài Đảng, trong giới nghiên cứu lý luận nói riêng và giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, đồng thời, phối hợp với cả những nhà mác xít chân chính ở nước ngoài, bởi đây là cuộc đấu tranh có ý nghĩa sống còn đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng cộng sản chân chính nói chung, của Đảng ta nói riêng. Điều này từng được V.I. Lênin chỉ rõ như sau: “Không có việc gì quan trọng bằng việc đoàn kết tất cả những người mác xít hiểu rõ tính chất sâu sắc của cuộc khủng hoảng và hiểu rõ sự tất yếu phải khắc phục cuộc khủng hoảng ấy để bảo vệ những cơ sở lý luận và những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác”[12]. Cuộc khủng hoảng mà V.I.Lênin nhắc đến ở đây là sự “khủng hoảng” về tư tưởng của những người mác xít khi bị các thế lực thù địch công kích, chống phá. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một trong những lý do chính khiến các thế lực thù địch ngày càng điên cuồng chống phá nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản. Song đó cũng là lý do quan trọng dẫn đến việc các đảng cộng sản phải tăng cường đoàn kết, siết chặt đội ngũ trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình.
Có thể khẳng định rằng: Ăngghen vừa là một nhà tư tưởng quân sự thiên tài, có công đặt nền móng xây dựng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Học thuyết mác xít về lý luận và thực tiễn cách mạng. Những cống hiến và đóng góp của Ăngghen thể hiện vai trò to lớn trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật quân sự đã góp phần làm phong phú, sâu sắc hơn di sản lý luận của “chủ nghĩa Mác” trong kho tàng lý luận thế giới, một mẫu mực về sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nhận thức, thực tiễn, giải thích một lĩnh vực đặc biệt phức tạp là chiến tranh và hòa bình, quân sự và quốc phòng, khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh cách mạng, xây dựng quân đội cách mạng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có những tư tưởng thiên tài của Ăngghen, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên CNXH và hiện nay đang lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Kỷ niệm 203 năm Ngày sinh Ăngghen (28/11/1820-28/11/2023) là dịp để chúng ta tưởng nhớ những công lao, vai trò đóng góp vĩ đại của ông đối với kho tàng lý luận thế giới, nhất là đối với CNXH khoa học, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác; bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân sự thông thái, tấm gương nhân hậu, thủy chung, khiêm nhường của Ăngghen - Nhà bác học, người thầy lỗi lạc của giai cấp vô sản hiện đại. Những đóng góp to lớn của Ăngghen luôn là những định hướng về trí tuệ để chúng ta nhận thức và hành động, luôn là tấm gương về phẩm hạnh để chúng ta học tập, vận dụng, phát triển trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - một xã hội mà ở đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người mà cả cuộc đời của Ăngghen đã cống hiến để mong đạt đến. Đây cũng là cơ sở, là nền tảng tư tưởng lý luận khoa học và cách mạng để đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục khẳng định sự kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng và Nhân dân ta./.
Lê Văn Sơn
[1] Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Chí Hiếu: “Tư tưởng của Ăngghen về vai trò của lý luận đối với chính đảng vô sản và ý nghĩa trong công tác phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Ăngghen (2016),“Giá trị tư tưởng Ăngghen trong thời đại ngày nay”. Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.278
[1] Hoàng Chí Bảo “Cống hiến vĩ đại của Ăngghen trong lịch sử chủ nghĩa Mác và CNXH”, trong sách “Giá trị tư tưởng của Ăngghen trong thời đại ngày nay” (2016), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.26
[3] Mác và Ăngghen (1993): Toàn tập (tập 18), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.128
[4] V.I. Lênin (2005): Toàn tập (tập 2), Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.3
[5] V.I. Lênin (2005): Toàn tập (tập 26), Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.110
[6] Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), 30 năm đổi mới đất nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.16
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.33
[8] V.I. Lênin (2005): Toàn tập (tập 4), Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.232
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.108
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 2), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.164
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.40-41
[12] V.I. Lênin (2005): Toàn tập (tập 20), Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.104