Kỷ niệm 41 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982-20/11/2023) là dịp để các thế hệ học sinh ghi nhớ câu “Ăn quả nhớ người trồng cây, có danh có vọng nhớ thầy khi xưa”; gửi những lời chúc mừng tốt đẹp nhất và những bông hoa tươi thắm đến các thầy cô giáo; bày tỏ lòng biết ơn và tri ân sâu sắc đối với những người đã có công dạy dỗ mình. Đó là truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay.
Quá trình ra đời Ngày Hiến chương Nhà giáo Việt Nam
Trên thế giới, ngày Hiến chương Nhà giáo được bắt nguồn từ sự kiện tháng 01/1946, một tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ thành lập Liên hiệp Quốc tế các Công đoàn Giáo dục lấy tên là FISE (Féderation International Syndicale des Enseignants) ở Paris (Pháp). Năm 1949, tại Hội nghị quốc tế Vacsava (Varsovie - Thủ đô của Ba Lan) tổ chức FISE thông qua bản “Hiến chương các nhà giáo” gồm 15 chương với nội dung chủ yếu là đấu tranh chống nền giáo dục tư sản, phong kiến; xây dựng nền giáo dục tiến bộ; bảo vệ những quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng của nghề dạy học và nhà giáo. Từ ngày 26-30/8/1957, 57 nước tham dự Hội nghị FISE tại Vacsava, trong đó có Công đoàn giáo dục Việt Nam đã quyết định lấy ngày 20/11 là “Ngày Quốc tế Hiến chương các Nhà giáo”.
Ở Việt Nam, ngày 22/7/1951, Công đoàn Giáo dục Việt Nam được thành lập đã liên hệ với FISE với mục đích tranh thủ các diễn đàn quốc tế, tố cáo âm mưu tội ác của bọn đế quốc xâm lược đối với Nhân dân, giáo viên và học sinh nước ta. Đồng thời, giới thiệu những thành tích của nền giáo dục cách mạng, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của toàn thể giáo viên trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của Nhân dân ta. Năm 1953, tại Hội nghị FISE ở Viên (Áo) Công đoàn giáo dục Việt Nam đã được kết nạp là một thành viên của FISE. Ngày 20/11/1958, lần đầu tiên Ngày quốc tế Hiến chương các “Nhà giáo Việt Nam” được tổ chức trên toàn miền Bắc. Những năm sau đó, ngày lễ 20/11 được tổ chức tại các vùng giải phóng ở miền Nam. Ngày 28/9/1982, theo đề nghị của ngành Giáo dục, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 167-HĐBT về Ngày Nhà giáo Việt Nam, trong đó quy định lấy ngày 20/11 là Ngày Nhà giáo Việt Nam. Ngày 20/11/1982, lễ kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam đầu tiên được tiến hành trọng thể trong cả nước ta. Từ đó đến nay, ngày 20/11 là Ngày truyền thống của ngành giáo dục và đào tạo nhằm tôn vinh công lao, đóng góp to lớn của những người làm công tác trồng người.
Quá trình hình thành và phát triển truyền thống "tôn sư trọng đạo" của dân tộc Việt Nam
“Tôn sư trọng đạo” là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, truyền thống ấy đã góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Truyền thống này được thể hiện trong ca dao, tục ngữ: “Muốn sang thì bắc cầu Kiều/Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy”; “Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy /Nghĩ sao cho bõ những ngày ước mong”; “Ơn thầy soi lối mở đường/Cho con vững bước dặm trường tương lai”; “Con ơi ghi nhớ lời này/Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy chớ quên”; “Không thầy đố mày làm nên”; “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”... Đó là lòng trân trọng, kính yêu của Nhân dân ta dành tặng người Thầy - những “kỹ sư tâm hồn” từ xa xưa. Nhân dân ta “trọng đạo” chính là trọng cái nghề “trồng người” cao quý, tôn vinh người thầy là những “kỹ sư tâm hồn”.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục”, “có gì vẻ vang hơn là đào tạo thế hệ sau này góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang”. Chính sự vẻ vang đó mà mỗi một con người khi đã gắn mình vào nghề dạy học thì dù ở bất kỳ thời đại nào, cũng phải ý thức rõ hơn vai trò trách nhiệm của mình. Nhiệm vụ của thầy cô giáo là rất quan trọng, theo cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo”, đối tượng và sản phẩm của thầy cô giáo chính là nhân cách “con người”. Ngoài việc định hướng, truyền thụ kiến thức cho các em học sinh, thầy cô giáo còn giúp học sinh hình thành nhân cách, biết đối nhân xử thế, có đạo đức lối sống tốt đẹp, có kỹ năng sống, khả năng thích ứng cuộc sống nghề nghiệp… Các thầy cô giáo không những dạy chữ mà còn dạy người, cống hiến thầm lặng, lan toả, dâng hiến trí tuệ, sức lực cho các thế hệ học trò.
Nhân dân ta luôn dành cho người thầy một vị trí xứng đáng, được kính trọng gọi là chữ Thánh hiền. Thời nhà Lý (1009-1225) đã tổ chức khoa thi nho học tam trường đầu tiên năm 1075. Những người thầy có học vị, tài năng, có nhân cách mẫu mực đều được học trò tôn kính, không hề có thái độ bất kính, hỗn xược. Hình ảnh người thầy được sánh ngang hàng với cha mẹ “cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” hay trong ba ngày tết thì “mùng một thăm cha, mùng hai thăm mẹ, mùng ba thăm thầy”.
Những nhà giáo chân chính Việt Nam luôn có cuộc sống giản dị trong sáng, mẫu mực, không màng danh lợi, không chuộng hư danh. Lật trong trang sử vàng của dân tộc, có biết bao tấm gương nhà giáo Việt Nam mẫu mực làm rạng danh đất nước. Các nhà giáo xưa đã bao người nêu cao “tấm gương tiết tháo, giàu sang không mềm lòng đổi trắng thay đen, uy vũ không khuất phục, suốt đời sống chết với nghề dạy học”. Ngày nay, các nhà giáo luôn tự hào với danh hiệu “kỹ sư tâm hồn”, tuyệt đại bộ phận thầy giáo, cô giáo vẫn giữ vững phẩm chất trong sạch, luôn giữ mình là “tấm gương sáng cho học sinh noi theo”.
Chu Văn An (1292-1370) là người xem thầy nổi tiếng đầu tiên của nền giáo dục Việt Nam. Ông là người tài giỏi, đức độ, được nhiều người kính trọng, gần xa theo học. Nhiều học trò của ông là những người nổi danh đương thời như: Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát... Ông được vua Trần Minh Tông đã giao chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám và phụ trách việc dạy dỗ các Hoàng tử, Vương tôn. Dù cuộc đời của ông đã trải qua bao thăng trầm, nhưng ông vẫn giữ được cốt cách, bản chất của một nhà giáo mẫu mực, thanh cao. Ông được nhân dân ca ngợi và đánh giá như là “một người thầy vĩ đại, một nhà sư phạm toàn diện nhất trong lịch sử dân tộc” với hầu hết các học trò từ thấp đến cao, từ bình dân đến quý tộc.
Nguyễn Trãi (1380-1442) là vị khai quốc công thần triều Lê Sơ; là người văn võ song toàn; sau khi đỗ Thái học sinh, ông là thầy dạy học nổi tiếng cho các Thái tử, Hoàng tử Triều Lê.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là trạng trình, giỏi văn thơ, am hiểu tướng số... Ông dâng sớ “hạch tội 18 lộng thần” nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542. Ông đã mở trường dạy học cạnh sông Hàn giang (còn có tên là Tuyết giang và học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”).
Võ Trường Toản (1709-1792) là một học giả Nho học nổi tiếng tại miền Nam. Ông mở trường dạy học, không tham gia vào chính sự. Học trò của ông khá đông và nhiều người nổi tiếng như: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu, Phạm Đăng Hưng, Lê Bá Phẩm,…
Lê Quý Đôn (1726-1784, tên thật Lê Danh Phương) là một nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực. Ông được mọi người biết đến với những công trình văn hoá, văn học xuất sắc và ông còn nổi tiếng là một nhà nho, một nhà giáo dục có đức độ, tài năng.
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) thường gọi là Cụ Đồ Chiểu có cuộc đời gặp rất nhiều đau khổ (ông đỗ tú tài nhưng bỏ thi Hội về chịu tang mẹ, trên đường về ốm nặng, khóc thương mẹ đến nỗi mù mắt, vợ chưa cưới bội ước). Vượt lên hoàn cảnh, ông mở trường dạy học, làm thuốc. Khi giặc thực dân Pháp xâm lược và dùng thủ đoạn mua chuộc, ông vẫn giữ vững khí tiết “Thà đui mà giữ đạo nhà/ Còn hơn có mắt ông cha không thờ, dùng văn chương làm vũ khí, ca ngợi nghĩa quân “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Dù trong hoàn cảnh nào, ông vẫn luôn đề cao trung hiếu, tiết nghĩa, lòng yêu nước, yêu nhân dân.
Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Người thầy mẫu mực đã để lại cho đời sau những bài học đạo đức vô cùng sâu sắc. Thầy rất nghiêm khắc với học trò, cả với con cái của mình khi họ đã trở thành ông kia bà nọ.
Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) là thân sinh của Bác Hồ, đỗ Phó bảng nhưng không ham chốn quan trường, ông mở trường dạy học ở nhiều nơi, được nhân dân yếu mến. Ông có công giáo dục nhiều thế hệ học trò và sinh ra một lãnh tụ vĩ đại “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam”.
Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) trước khi đi tìm đường cứu nước đã từng dạy ở trường Dục Thanh (Phan Thiết). Sau này khi lãnh đạo đất nước, Bác Hồ vẫn là một nhà giáo dục sâu sắc. Không ai quên 5 điều Bác Hồ dạy, không ai quên lời Người: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt”, ai cũng nhớ câu “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Ngoài những nhà giáo kể trên, lật mở trang sử hào hùng của dân tộc, vẫn còn rất nhiều những nhà giáo nổi tiếng khác như: Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Du, Lê Trọng Thứ, Dương Quảng Hàm, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thai Mai, Tôn Thất Tùng, Hoàng Ngọc Phách, Lương Văn Can, Nguyễn Văn Huyên, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,… và trong thực tế, không thể nào liệt kê hết được những nhà giáo đã thầm lặng “lái những chuyến đò qua sông”. Đó là những nhà giáo mẫu mực, tài đức vẹn toàn, nhân cách thanh cao. Tên tuổi của họ đã góp phần tô điểm cho truyền thống “tôn sư trọng đạo” và hiện nay được dùng để đặt tên cho các trường học, đường phố, công trình trọng điểm, giải thưởng của các cuộc thi… được nhân dân hết lòng ngưỡng mộ và noi theo.
Ở thời kỳ nào cũng vậy, người thầy luôn là một tấm gương sáng cho học trò noi theo. Ngoài việc có chuyên môn giỏi thì người thầy phải có đạo đức, lối sống mẫu mực, có lòng yêu thương học trò, yêu nghề, sống nhân ái, nghĩa tình, trọng đạo lý, được mọi người kính trọng. Vì lẽ đó mà người Việt luôn nhắc nhở nhau phải “Tôn sư trọng đạo”, phải biết yêu kính thầy, nghe lời thầy dạy dỗ. Trong xã hội học tập và mọi người được học tập suốt đời như hiện nay thì vai trò của người thầy lại càng quan trọng. Vị trí người thầy không ngừng được nâng lên, ơn nghĩa đối với người thầy vẫn là một trong những đạo lý được coi trọng. Mặc dù khoa học - kỹ thuật phát triển, nhiều yếu tố hiện đại, tiện ích có thể tham gia vào quá trình giáo dục con người, nhưng có lẽ không gì có thể thay thế được vị trí của người thầy. Vì thế, truyền thống “Tôn sư trọng đạo” vẫn còn vẹn nguyên giá trị, vừa là niềm tự hào, vừa là ý thức trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo đã được hình thành, vun đắp và phát triển qua các thời kỳ lịch sử; được Nhân dân ta giữ gìn, phát huy trong cuộc sống hiện nay. Dù ở đâu trên khắp đất nước, từ thành thị đến nông thôn, miền xuôi đến miền ngược, người dân Việt Nam đều yêu quý, tôn trọng người thầy, đều dành cho thầy những tình cảm ưu ái và lòng biết ơn sâu sắc. Người thầy được tôn vinh thì nghề dạy học cũng được coi trọng. Không phải ngẫu nhiên mà giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và ngày 20/11 hằng năm trở thành ngày hội lớn của toàn dân để tôn vinh người thầy và nghề dạy học cao quý.
3. Ngành giáo dục tiếp tục phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo từ năm 1945 đến nay
Kế thừa và phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo của ông cha, ngay từ ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Một dân tộc dốt, là một dân tộc yếu”, nên đã phát động chiến dịch xóa mù chữ. Người coi mù chữ là một quốc nạn và “dốt” cũng là một loại giặc nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Tháng 9/1945, Người chỉ thị thành lập Nha bình dân học vụ, phát động phong trào “bình dân học vụ” nhằm “Diệt giặc dốt” trong toàn xã hội. Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hàng triệu người nô nức đi học, hàng vạn người biết chữ tham gia dạy người chưa biết chữ tại các lớp bình dân học vụ. Sau một năm phát động, đã có hơn 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Đây là một kỳ tích về xã hội hóa học tập trong lịch sử giáo dục nước nhà.
Kinh nghiệm thực tiễn xóa mù chữ ở miền Bắc đã trở thành những bài học quý báu, bổ ích cho công cuộc xóa nạn mù chữ ở miền Nam ngay sau ngày giải phóng, đất nước thống nhất. Cuối tháng 02/1978, toàn bộ 21 tỉnh, thành phố ở miền Nam đã cơ bản thanh toán nạn mù chữ. Sự nghiệp nâng cao dân trí của đất nước tiếp tục tiến lên một bước mới, được đánh dấu bằng thập kỷ 1990-2000, cả nước triển khai công cuộc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện mục tiêu thế giới bước vào thế kỷ XXI không còn nạn mù chữ do UNESCO khuyến cáo và Liên Hợp Quốc phát động để đến năm 2000, tất cả các tỉnh/thành phố trong cả nước với 98,03% số quận/huyện; 98,53% số xã/phường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học; hầu hết trẻ em trong độ tuổi đều được đi học tiểu học; 94% dân số trong độ tuổi 15-35 đã biết chữ. Đó thực sự là một mốc son lớn trong lịch sử giáo dục nước nhà.
Từ năm 2001-2010, Việt Nam tiếp tục phổ cập giáo dục Trung học cơ sở và hoàn thành vào năm 2010. Mặc dù là một quốc gia đang phát triển, còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam luôn được các tổ chức quốc tế đánh giá là cao về thành tích giáo dục và phổ cập giáo dục so với các nước có mức thu nhập tương đương.
Từ năm 2014 đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số. Sự nghiệp giáo dục phát triển trên nền tảng xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam đã và đang vận động đúng quỹ đạo của xu thế chung và đạt được những thành tựu quan trọng. Các cơ sở giáo dục ngày càng được quan tâm đầu tư tốt hơn cả về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất.
Theo số liệu tổng kết 08 năm thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong 04 mục tiêu chính, Đề án đã đạt được 02 mục tiêu lớn: “Xóa mù chữ và phổ cập giáo dục”, “Học tập để hoàn thiện kỹ năng sống, xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng ngày càng hạnh phúc hơn”. 63/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1; trong đó 34/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; các địa phương đã tổ chức xóa mù chữ cho trên 300.000 người trong độ tuổi 15-60; 63/63 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2; đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1; 21/63 tỉnh, thành phố (33,3%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 và 11/63 tỉnh, thành phố (17,5%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2; 03 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở mức cao nhất - mức độ 3.
Mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên được củng cố và phát triển nhanh chóng về số lượng, đa dạng về mô hình, hoạt động mang lại hiệu quả thiết thực đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân. Hiện cả nước có 17.459 cơ sở giáo dục thường xuyên, trong đó có 71 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh; 619 trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên cấp huyện; 10.469 trung tâm học tập cộng đồng; 5.642 trung tâm ngoại ngữ - tin học; 658 cơ sở, trung tâm thực hiện giáo dục kỹ năng sống. Đặc biệt, trong những năm qua Việt Nam đã đạt nhiều thưởng cao trong các kỳ thi Olympic quốc tế về Toán, Lý, Hóa, Sinh,…
Trong năm học 2022-2023, ngành giáo dục tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo yêu cầu của Nghị quyết số 29-NQ/TW của Trung ương (khóa XI). Ngành giáo dục đã tích cực xây dựng Chương trình Giáo dục mầm non mới; triển khai có hiệu quả Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 và Chương trình Giáo dục thường xuyên mới theo lộ trình. Đội ngũ giáo viên cơ bản thực hiện hiệu quả các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm phát triển năng lực, phẩm chất học sinh; việc tổ chức quản lý đã chuyển dần theo hướng quản trị nhà trường. Chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn tiếp tục được nâng lên. Mạng lưới, quy mô trường, lớp tiếp tục được quan tâm đầu tư, nhất là các cơ sở giáo dục thường xuyên tại các địa phương về cơ bản được duy trì ổn định, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời của người dân. Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, “cả nước có 15.334 cơ sở giáo dục mầm non và 25.467 cơ sở GDPT với 1.976.744 học sinh các cấp; tỉ lệ học sinh/lớp trung bình ở cấp Tiểu học là 32,1, THCS là 37,71 và THPT là 40,27; tỉ lệ tốt nghiệp THPT chung toàn quốc đạt 98,88%, phản ánh khách quan kết quả học tập của các thí sinh và chất lượng dạy học ở các địa phương. Học sinh Việt Nam tiếp tục đạt nhiều thành tích cao trong kỳ thi khoa học kỹ thuật quốc tế, thi Olympic khu vực và quốc tế đạt 11 huy chương vàng, 14 huy chương bạc, 12 huy chương đồng và 05 bằng khen. Theo Bảng xếp hạng các quốc gia tốt nhất về giáo dục năm 2021 (công bố năm 2022), Việt Nam xếp thứ 59 thế giới (tăng 05 bậc so với năm trước). Toàn ngành đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo điều hành và hoạt động dạy và học”.
Ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Đồng Nai, trong những năm qua đã nỗ lực vượt qua khó khăn, tiếp tục giữ gìn, phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” tốt đẹp và đạt nhiều thành tích nổi bật. Theo số liệu báo cáo tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, sự nghiệp giáo dục và đào tạo tỉnh luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân. Chất lượng giáo dục và đào tạo ngày càng được nâng cao, tỷ lệ tốt nghiệp đạt tăng từ hơn 91% năm học 2014-2015 lên 97% năm học 2022-2023, tỷ lệ học sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng hàng năm tăng bình quân 10%/năm. Đồng Nai là một trong những địa phương thực hiện tốt nhất chủ trương xã hội hóa giáo dục của cả nước, “tính đến năm 2023, trường ngoài công lập ở bậc học mầm non có 157/376 trường, đạt tỷ lệ 41,7%; cấp trung học phổ thông có 27/77 trường, đạt tỷ lệ 35,06%. Tính chung tỷ lệ trường tư thục của tỉnh Đồng Nai là 20%, cao gấp ba lần so với bình quân của cả nước”. Đội ngũ quản lý giáo dục, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục được củng cố, kiện toàn, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hóa về trình độ đào tạo, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm cao, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới.
Trong năm học 2022-2023, ngành giáo dục và đào tạo tỉnh tiếp tục triển khai năm học thứ ba chương trình Giáo dục phổ thông mới. Theo số liệu báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo: “Toàn ngành có 922 trường mầm non, phổ thông gồm 376 trường mầm non, 288 trường tiểu học, 181 trường trung học cơ sở và 77 trường trung học phổ thông. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được quan tâm, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Đến hết năm học 2022-2023, tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia trong hệ thống các trường công lập ở bậc mầm non đạt 74,88%, tiểu học đạt 67,62%, trung học cơ sở đạt 74,58% và trung học phổ thông đạt 60%. Trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 97,10% (tăng 0,16% so với năm 2022)”. Ngành giáo dục và đào tạo tỉnh có 03 đơn vị nhận được cờ thi đua xuất sắc, 24 tập thể và 129 cá nhân là cán bộ, giáo viên, học sinh có thành tích xuất sắc nhận được bằng khen của UBND tỉnh. Toàn tỉnh vinh dự có 02 Nhà giáo nhân dân và 121 Nhà giáo ưu tú.
Phát huy những kết quả đạt được, trong năm học 2023-2024, ngành giáo dục và đào tạo tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện “giáo dục lý tưởng cách mạng, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, xây dựng văn hóa học đường gắn với thực hiện hiệu quả bộ quy tắc ứng xử trong trường học”; đề án “Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2017-2025”, thu hút nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ giáo viên để đảm bảo thực hiện tốt Chương trình giáo dục phổ thông 2018; hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngành giáo dục và đào tạo, kết nối liên thông trong ngành và với cơ sở dữ liệu quốc gia. Đẩy mạnh cải cách hành chính và tăng cường thực hiện các thủ tục hành chính trên cổng dịch vụ công trực tuyến.

Lãnh đạo tỉnh bắt tay động viên tinh thần ngành GD-ĐT và các sở, ngành cùng phấn đấu, thi đua hoàn thành nhiệm vụ năm học 2023-2024 (Ảnh Báo Đồng Nai)
Có thể thấy, trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc, người Việt đã xây dựng và vun đắp nhiều truyền thống quý báu, như truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, hiếu học, tôn sư trọng đạo, cần cù, siêng năng... Những truyền thống ấy như những sợi chỉ đỏ xuyên suốt, kết dính từng thế hệ người Việt. Truyền thống “Tôn sư trọng đạo” cùng với truyền thống hiếu học của Nhân dân ta đã làm nên một nước Việt Nam “ngàn năm văn hiến” và mãi mãi giữ nguyên giá trị ở hiện tại và cả tương lai. Vì thế, mỗi cán bộ, giáo viên, học sinh Đồng Nai hôm nay cần tiếp tục vun đắp, giữ gìn và phát huy truyền thống ấy để sự nghiệp “trồng người” của tỉnh nhà nói riêng và cả nước nói chung ngày càng phát triển vững mạnh, toàn diện. Nhân dịp kỷ niệm 41 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, ôn lại truyền thống nhà giáo Việt Nam để chúng ta hiểu rằng, xây dựng và đào tạo con người là yếu tố hết sức quan trọng và càng thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Song, để có những con người hoàn thiện thì không thể thiếu đội ngũ những người thầy. Đó là nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vẻ vang mà đội ngũ người thầy giữ vai trò quyết định đối với mỗi người con đất Việt hôm nay và mãi về sau.
Lê Sơn