Trải qua 79 năm hình thành và phát triển (22/12/1944-22/12/2023), QĐND Việt Nam đã mang nhiều tên gọi khác nhau như: Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Việt Nam Giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Quân đội Quốc gia Việt Nam và QĐND Việt Nam. Dù với tên gọi nào, QĐND Việt Nam luôn là quân đội của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Tên gọi “QĐND” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa “từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân phục vụ”, luôn giữ vững “10 lời thề”, “12 điều kỷ luật”, chấp hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và mệnh lệnh của cấp chỉ huy, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của Nhân dân, lập nên những chiến công hiển hách, mãi xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Từ cuối năm 1939, trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình trong nước và quốc tế sau khi chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra, Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị Trung ương lần 6 (11/1939), lần 7 (11/1940) để chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đạt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đặc biệt, sau gần 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28/01/1941), Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần 8 (5/1941) để hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xúc tiến xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Hội nghị khẳng định: “Cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”[1]. Hình thái của cuộc khởi nghĩa vũ trang từ khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa địa phương đi tới Tổng khởi nghĩa. Hội nghị chỉ rõ: “Để có một LLVT toàn quốc, cần phải có những tổ chức tiểu tổ du kích, du kích chính thức và tổ chức binh lính đế quốc”[2].
Sau hội nghị, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Cao Bằng, phát triển thành những “châu hoàn toàn Việt Minh”. Đến năm 1942, phong trào Việt Minh ở Cao Bằng phát triển mạnh, đã xuất hiện nhiều tổng, xã “hoàn toàn Việt Minh” hình thành căn cứ địa rộng lớn được nối liên hoàn như: “Pác Bó (Hà Quảng), Lam Sơn (Hòa An), Thiện Thuật, Quang Trung của đồng bào Dao, H’mông (Nguyên Bình); khu căn cứ địa “Nam tiến” khai thông xuống các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang”[3]. Nhờ đó, phong trào cách mạng Cao Bằng có điều kiện liên lạc được với Trung ương Đảng ở miền xuôi và hòa nhập cùng với phong trào cả nước.
Từ cuối năm 1943, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Trên thế giới, các lực lượng phát xít thất bại ở nhiều nơi và bị đẩy vào thế bị tiêu diệt hoàn toàn. Ở nước ta, phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật ngày càng lan rộng. Điều kiện cho việc đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng đất nước ngày càng thuận lợi. Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng đã họp, ra quyết định củng cố và phát triển Mặt trận Việt Minh, đồng thời, ra sức chuẩn bị khởi nghĩa. Trung ương Đảng chỉ thị phải tuyên truyền cho quần chúng nhân dân tin tưởng vững chắc vào cách mạng; phổ biến cho Nhân dân chiến thuật du kích và kinh nghiệm khởi nghĩa; phải đấu tranh bằng nhiều hình thức từ thấp đến cao để tập dượt cho quần chúng; phải tổ chức và củng cố các đội tự vệ và tiểu đội du kích, đồng thời “phải huấn luyện quân sự cho những tổ chức ấy” [4]. Phong trào cách mạng tại Cao - Bắc - Lạng phát triển mạnh khiến thực dân Pháp hết sức lo ngại. Trong khi thực dân Pháp và phát xít Nhật mâu thuẫn nhau về quyền lợi ngày càng tăng như một kho thuốc súng sắp nổ ở Cao - Bắc - Lạng. Thực dân Pháp liên tục tiến hành các đợt khủng bố khốc liệt ở hầu hết các châu của Cao Bằng. Bên cạnh đó, chúng còn huy động lực lượng mật thám, cảnh sát từ Hà Nội lên để đàn áp, đồng thời tiến hành mua chuộc đồng bào, tạo mâu thuẫn giữa đồng bào các dân tộc. Ngoài ra, địch còn tăng cường hệ thống đồn bốt trên những tuyến đường chúng nghi là đầu mối liên lạc của ta. Tại Nguyên Bình, địch xây thêm đồn Phai Khắt, Nà Ngần, tiến hành khủng bố ở Kỳ Chỉ, Gia Bằng, Tam Kim, Hoa Thám, Hưng Đạo với âm mưu “tách cá khỏi nước” nhằm phá sự gắn kết giữa quần chúng với LLVT nhưng thất bại.
Trước tình thế đó, ngày 07/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về sửa soạn vũ khí đưa phong trào cách mạng của Cao - Bắc - Lạng lên một bước mới. Tiếp đó, ngày 13/7/1944, Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng triệu tập hội nghị tại Lũng Sa (một địa điểm giáp giới châu Hòa An và Nguyên Bình) đã khẳng định: “Các điều kiện đã chín muồi để phát động chiến tranh du kích trong Liên tỉnh”[5] . Cuối tháng 10/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về xã Nà Sác (Hà Quảng - Cao Bằng). Sau khi các đồng chí Vũ Anh, Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình cách mạng trong nước, đặc biệt về quyết định khởi nghĩa vũ trang của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, Nguyễn Ái Quốc nhận định: “Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới… Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức đấu tranh thích hợp mới có thể đẩy phong trào tiến lên”[6). Trước tình hình LLVT của cách mạng còn ít, lại hoạt động phân tán, Người quyết định lập Đội quân giải phóng để “tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang để hoạt động. Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng”[7].
Sau khi nghiên cứu các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, đồng chí Võ Nguyên Giáp chọn khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám thuộc châu Nguyên Bình (Cao Bằng) tổ chức lễ thành lập đội. Khu rừng “thuộc núi Dền Sinh, dãy Khâu Giáng, nơi có nhiều cây cổ thụ và đỉnh Slam Cao, cao nhất trong các dãy núi xung quanh, rất tiện cho việc bố trí vị trí quan sát”[8]. Đó cũng là nơi thuận tiện cho những người hoạt động cách mạng, nhưng lại là điểm nghịch thiên, chỗ yếu của bọn thống trị ở mọi cấp. Phía bắc khu rừng có đường từ Kim Mã qua châu Trần Phú, khi có biến rút sang Trung Quốc. Phía đông có đường mòn sang châu Phùng Chí Kiên, dãy núi Kim Hỷ về Bắc Sơn (Lạng Sơn), Đình Cả (Thái Nguyên). Phía tây khu vực này trông sang ngọn núi phía bắc, Khao Sơn và phía nam tiến thẳng xuống núi Cứu Quốc. Ngoài ra, khu rừng nằm trên dải núi giáp giới ba tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn; ở giữa hai Quốc lộ 3 và 4. Đây là điểm hết sức thuận lợi cho ta tiếp nhận những luồng ánh sáng ở những vùng đất nằm ngoài sự kiểm soát, khống chế của bọn thống trị và cũng là lối thoát ra ngoài an toàn khi chúng khủng bố.
Để lãnh đạo phong trào cách mạng kịp thời, Châu ủy Nguyên Bình thành lập đã cử cán bộ dự các lớp huấn luyện của Việt Minh tổ chức. Ở Nguyên Bình đã xuất hiện nhiều xã, lũng “hoàn toàn Việt Minh”, Ban Việt Minh ở nhiều nơi đã được thành lập. Cùng thời gian này, lãnh tụ Hồ Chí Minh đến Gia Bằng mở lớp huấn luyện chính trị cho các đồng chí trong tỉnh ủy và châu ủy lâm thời. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng ở Nguyên Bình, lòng yêu nước của Nhân dân ở đây, từng được thử thách qua các đợt khủng bố trắng của địch, cùng với vị trí địa lý hiểm trở, đã làm cho Nguyên Bình có đầy đủ các yếu tố để trở thành căn cứ địa.
Cũng như nhiều địa phương khác ở Cao Bằng, Nhân dân Tam Lọng và Kim Mã có cuộc sống rất khó khăn. Dưới ách cai trị của thực dân và tay sai, Nhân dân Tam Lọng và Kim Mã luôn mang trong mình tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh quật khởi. Trước sự phát triển của phong trào cách mạng, cơ sở hội viên Hội Cứu quốc phát triển rộng khắp và lan nhanh sang các tổng Hoa Thám và Hưng Đạo. Hội Cứu quốc phát triển đến đâu, ở đó tổ chức các đội tự vệ chiến đấu trong thanh niên làm nhiệm vụ bảo vệ các cuộc họp và tiễu trừ Việt gian phản động. Trong những ngày chuẩn bị thành lập đội, trên các ngả đường về khu rừng Trần Hưng Đạo, các đội tự vệ của các xã: Tam Lọng, Kim Mã, Hoa Thám bí mật dẫn đường, bảo vệ cho các đội viên về nơi tập kết. Dưới sự chỉ đạo của các cán bộ địa phương như Nông Văn Lạc, Lý Đức Thương, các đoàn thể Cứu quốc đã đóng góp lương thực, rau, muối, giấy viết khẩu hiệu cho đội. Công việc chuẩn bị được tiến hành rất khẩn trương. Các đội viên và cán bộ lần lượt từ các châu kéo về. Ba, bốn trạm được tổ chức ở những nơi giáp giới Cao Bằng, Bắc Kạn để đón tiếp, đưa đường cho các đội viên.
Sau một thời gian chuẩn bị, theo Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập “trong một khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám”[9] huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, gồm 34 chiến sĩ với “34 khẩu súng kíp, súng trường…”, biên chế thành 03 tiểu đội, do đồng chí Văn (tức Võ Nguyên Giáp) trực tiếp chỉ huy, đồng chí Hoàng Sâm được cử làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên. Chỉ sau 02 ngày, Đội đã mưu trí, dũng cảm chiến đấu, lập chiến công đánh đồn Phay Khắt, Nà Ngần giành thắng lợi, gây được thanh thế lớn, mở ra truyền thống quyết chiến, quyết thắng, biết đánh, biết thắng kẻ thù xâm lược.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày 22/12/1944 (Ảnh Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam)
Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ra đời, đánh dấu sự phát triển mới của lực lượng vũ trang cách mạng. Từ đây, cách mạng Việt Nam xuất hiện ba hình thức tổ chức của LLVT nhân dân: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực, các đội vũ trang ở châu và các đội tự vệ nửa vũ trang ở xã. Với nhãn quan chính trị sâu sắc và nhạy bén của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn địa điểm hợp lý cho sự ra đời của đội quân chủ lực đầu tiên. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã làm tròn trọng trách mà lãnh tụ Hồ Chí Minh giao phó. Sau này, Cao Bằng - Nơi ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - được lựa chọn cùng với các tỉnh Việt Bắc là Thủ đô kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp tục phát huy thế mạnh về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” trong kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi.
Từ ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân luôn phát triển và trưởng thành với các tên gọi khác nhau qua các thời kỳ lịch sử:
Việt Nam Giải phóng quân là tên gọi của QĐND Việt Nam từ tháng 5 đến tháng 11/1945. Việt Nam Giải phóng quân thành lập ngày 15/5/1945, tại Định Biên Thượng (Chợ Chu, Thái Nguyên) trên cơ sở thống nhất từ các đơn vị Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân cùng các tổ chức vũ trang cách mạng tập trung của cả nước, theo nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ (tháng 4/1945) họp tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) trong bối cảnh lịch sử Trong lúc cả nước ta sục sôi không khí cách mạng thì Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào những ngày kết thúc. Ngày 07/5/1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. Ngày 08/8/1945, Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông của phát xít Nhật; sự sụp đổ hoàn toàn của phát xít Nhật chỉ còn tính từng giờ.
Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam được họp ở Tân Trào từ ngày 13 đến 15/8/1945 trong không khí hết sức khẩn trương. Trên cơ sở đánh giá thời cơ, phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Theo lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, của Tổng bộ Việt Minh và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước đứng dậy. Ngày 16/8/1945, đơn vị chủ lực của Việt Nam giải phóng quân xuất phát từ Tân Trào tiến đánh thị xã Thái Nguyên. Mục tiêu tiến công của Giải phóng quân lúc này không còn là những đồn bốt, châu lỵ mà là những căn cứ chính của địch, các thị trấn, thị xã. Lời căn dặn của Bác Hồ: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đôt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14-28/8/1945), Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã thắng lợi trong cả nước. Chính quyền cách mạng của nhân dân được thành lập từ Trung ương đến khắp các thôn, xã. Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời.
Vệ quốc đoàn: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã lâm vào tình thế hiểm nghèo, thù trong, giặc ngoài. Ở phía Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch tiến vào giải giáp quân Nhật. Ở phía Nam, thực dân Anh mở đường cho thực dân Pháp tiến vào với âm mưu biến Việt Nam trở về thời kỳ thuộc địa. Lúc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tiến hành sách lược mềm dẻo “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để giữ vững nền độc lập non trẻ. Trước sức ép của quân Tưởng Giới Thạch, ta linh động đưa Đảng ta vào hoạt động bí mật, Đảng tuyên bố “tự giải tán”. Để đáp ứng yêu sách của quân Tưởng đòi giải tán quân đội chính quy, tháng 11/1945, Việt Nam giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn (còn gọi là Vệ quốc quân). Lúc này quân số quân đội ta khoảng 50.000 người, tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ. Một số chi đội đã “Nam tiến” để giúp quân dân miền Nam chống lại thực dân Pháp đang tấn công xâm lược trở lại ở Nam Bộ.
Quân đội Quốc gia Việt Nam: Ngày 22/5/1946, theo Sắc lệnh 71/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, được đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham mưu. Quân đội ta lúc này tổ chức biên chế thống nhất theo trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội… Cùng với việc xây dựng quân đội quốc gia, Chính phủ ta đặc biệt coi trọng việc xây dựng LLVT quần chúng, lực lượng bán vũ trang, bao gồm: dân quân ở nông thôn và tự vệ ở đô thị. Trong thời kỳ 1945-1950, có những người lính trong quân đội thực dân, đế quốc sang xâm lược Việt Nam, bị cảm hóa bởi cuộc kháng chiến vệ quốc chính nghĩa của quân dân ta đã tình nguyện gia nhập Quân đội ta, tham gia chiến đấu và công tác ở nhiều lĩnh vực như chỉ huy, tham mưu, kỹ thuật, huấn luyện, quân y, quân giới, tuyên truyền… Nhiều người được giao trọng trách và phong quân hàm sĩ quan. Họ đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng Quân đội Quốc gia Việt Nam trong buổi ban đầu xây dựng lực lượng.
QĐND Việt Nam: Từ năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành QĐND Việt Nam. Tên gọi “QĐND” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa “từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, vì Nhân dân phục vụ”.
Cũng thời gian này, các đại đoàn (đơn vị tương đương sư đoàn) chủ lực quan trọng như các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến nay vẫn là những đơn vị chủ lực của QĐND Việt Nam. Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, QQĐND Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công oanh liệt, mà đỉnh cao là chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” - Điện Biên Phủ lịch sử ngày 07/5/1954, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève (21/7/1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, ngày 15/02/1961, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, là một bộ phận của QĐND Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã cùng với các lực lượng cách mạng và nhân dân cả nước mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, lập nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” (12/1972), buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tạo điều kiện để “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30/4/1975.
Sau khi đất nước thống nhất, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam hợp nhất vào QĐND Việt Nam. QĐND Việt Nam tiếp tục cùng với Nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, phía Bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Thực hiện nghĩa vụ quốc tế, cùng với LLVT của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia lật đổ ách thống trị bạo tàn của chế độ Khmer Đỏ, giải phóng đất nước Campuchia.
Bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng và phát triển đất nước, Quân đội ta tiếp tục phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, thực hiện đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Có thể khẳng định, ngày 22/12/1944 là ngày thành lập QĐND Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của một tổ chức quân sự mới của dân tộc ta. Một quân đội của dân, do dân, vì dân; luôn gắn bó máu thịt với dân, luôn luôn được dân tin yêu, đùm bọc. Dù trong bất cứ thời điểm lịch sử nào, QĐND Việt Nam luôn là đội tiên phong sẵn sàng đương đầu, bảo vệ an bình cho Tổ quốc, Nhân dân Việt Nam. Ghi nhớ công lao của các cán bộ, chiến sĩ ở tuyến đầu bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam trong suốt các chặng đường lịch sử, đó chính là truyền thống của dân tộc ta.
Năm 1989, theo chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng và quyết định của Chính phủ, ngày 22/12 hàng năm không chỉ là ngày kỷ niệm thành lập QĐND Việt Nam mà còn là ngày Hội quốc phòng toàn dân - Một ngày kỷ niệm đầy ý nghĩa đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Mỗi năm, cứ đến ngày này, toàn dân Việt Nam lại tiến hành các hoạt động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội, nhằm tuyên truyền sâu rộng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, động viên mọi công dân chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.
LLVT tỉnh Đồng Nai ra đời từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, tiền thân là các tổ chức vũ trang, Vệ quốc đoàn quận Châu Thành (nay là huyện Vĩnh Cửu) và Biên Hòa. Ngày 15/5/1946, Tỉnh ủy Biên Hòa triệu tập Hội nghị thống nhất các LLVT lấy tên chung là Vệ quốc đoàn Biên Hòa (tiền thân của LLVT Đồng Nai ngày nay), xây dựng chiến khu Đ thành căn cứ kháng chiến của tỉnh.
Tháng 7/1946, Chi đội 10, Vệ quốc đoàn Biên Hòa tổ chức trận đánh vào thị xã Biên Hòa (nay là thành phố Biên Hòa), Tân Uyên (nay là thị xã Tân Uyên và huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương),… gây tiếng vang lớn. Hàng loạt những chiến công tiêu biểu như: Gia Huynh, Trảng Táo, Bảo Chánh, Bàu Cá,… mà đỉnh cao là đỉnh cao là chiến thắng La Ngà năm 1948, LLVT Biên Hòa đã tiêu diệt 150 lính, 25 sĩ quan, phá hủy 59 xe quân sự của thực dân Pháp. Mùa khô năm 1950, LLVT Biên Hòa làm nòng cốt tiến hành trận đánh tập kích đồn Chi khu Trảng Bom, Long Diềm, Gò Lũy,… đánh bài nhiều cuộc càn quét quy mô của địch vào chiến khu Đ,… Ngày 02/12/1956, diễn ra cuộc nổi dậy phá nhà lao Tân Hiệp, thể hiện ý chí cách mạng sắt đá của LLVT Biên Hòa. Trận đánh Mỹ ở nhà Xanh (Biên Hòa) vào đêm ngày 07/7/1959, tiêu diệt hai cố vấn Mỹ đã gây tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Tiếp đến là diễn ra các trận đánh ác liệt, tiêu biểu như: Trận pháo kích sân bay Biên Hòa ngày 31/10/1964, trận chống càn quy mô lớn ở Đất Cuốc ngày 08/11/1965, xuân Mậu Thân năm 1968,… Với những chiến công trên, LLVT Biên Hòa đã chia lửa với chiến trường cả nước, góp phần làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ từng bước xuống thang chiến tranh và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán Pari.
Các trận đánh của bộ đội đặc công Biên Hòa vào tổng kho Long Bình năm 1966, 1967, 1972… đã phá hủy hàng chục vạn tấn bom đạn, phương tiện chiến tranh, tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên lính Mỹ là lời cảnh báo đanh thép của quân và dân ta đối với âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ. Bước vào cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975, phòng tuyến Xuân Lộc được địch xây xựng thành “cánh cửa thép”, án ngữ hướng Đông Bắc Sài Gòn. Sau 21 ngày đếm chiến đấu với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, LLVT Biên Hòa cùng với Nhân dân và bộ đội chủ lực đã chọc thủng phòng tuyến Xuân Lộc, mở đường cho đại quân ta tiến vào giải phóng Biên Hòa, Sài Gòn, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta ngày 30/4/1975. Năm 1977, khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ LLVT trong tỉnh không ngại hy sinh, gian khổ, hăng hái lên đường cùng với quân dân miền Đông Nam Bộ và cả nước chiến đấu bảo vệ biên giới và làm tròn nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia,...
Đảng, Nhà nước đã tặng nhiều phần thưởng cao quý cho LLVT tỉnh Đồng Nai, tiêu biểu như: 02 Huân chương Sao vàng; 01 Huân chương Hồ Chí Minh; 01 Huân chương Quân công hạng nhất; 13 Huân chương thành đồng Tổ quốc, hạng nhất, nhì, ba; 26 Huân chương Giải phóng, hạng nhất, nhì, ba; 04 Huân chương bảo vệ Tổ quốc; 61 đơn vị anh hùng LLVT nhân dân,… Bên cạnh phần thưởng cho tập thể, Đảng và Nhà nước ta đã công nhận và tặng nhiều phần thưởng cao quý cho các cá nhân có những cống hiến lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tiêu biểu như: 7.302 Liệt sĩ (ngoài ra, có khoảng gần 7000 hồ sơ Liệt sĩ đã chuyển đi tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (do tách tỉnh) và các tỉnh khác do gia đình đề nghị), 1.084 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (Đây là số lượng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng được công nhận tại tỉnh Đồng Nai); 32 Anh hùng LLVT nhân dân; 1.490 thương binh và 302 bệnh binh; 08 Huân chương Độc lập; 149 Huân chương Quân công (các hạng); 5243 Huân chương Quân kỳ quyết thắng; 4491 Huân chương Chiến công (các hạng); 36 Huân chương Chiến công giải phóng; 18.199 Huân chương Chiến sĩ giải phóng; 258 Huân chương Chiến thắng; 6.706 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (các hạng); 1.662 Huy chương Chiến sĩ giải phóng (các hạng); 1.170 Huân chương bảo vệ Tổ quốc; 1.050 Huy chương Hữu nghị; Hàng vạn cờ thi đua, bằng khen và phần thưởng cao quý khác, tiêu biểu như: Bộ Quốc phòng tặng cờ thi đua xuất sắc; Tổng cục chính trị tặng Bằng khen trong thực hiện 05 tiêu chuẩn “Đơn vị Dân vận tốt”,…
Trong giai đoạn cách mạng mới, trước nhiều tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu, dịch bệnh,… LLVT nhân dân tỉnh Đồng Nai luôn nhận thức rõ đặc điểm địa bàn và nắm vững chức năng, nhiệm vụ được giao, LLVT tỉnh đã đoàn kết, thống nhất, chủ động khắc phục khó khăn, tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh và trực tiếp tổ chức thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương. Đồng thời, chủ động nắm vững quan điểm, đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị triển khai và thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Nhờ đó, nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn được củng cố, tăng cường; tiềm lực, thế trận khu vực phòng thủ Tỉnh ngày càng vững chắc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững, tạo môi trường thuận lợi để Tỉnh đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân trong tỉnh./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb CTQG, Hà Nội, tr.129.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb CTQG, Hà Nội, tr.130.
[3] 70 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, Nxb Văn hóa-Thông tin, tr.18.
[4] Trần Đức Cường (2004), Thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam-Một yêu cầu tất yếu trong cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, Viện Sử học.
[5] Bộ Quốc phòng - Viện LSQS Việt Nam (2004), Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Nxb QĐND, Hà Nội, tr.46.
[6], [7] Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, tr.123-124.
[8] Bộ Quốc phòng - Viện LSQS Việt Nam (2004), Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Nxb QĐND, Hà Nội, tr.56.
[9] Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, tr.133.
Lê Văn Sơn