Các Mác (Karl Marx) sinh ngày 05/5/1818 tên đầy đủ Karl Henrich Marx sinh tại thành phố Triơ (Trier), tỉnh Ranh thuộc nước Phổ (nay là CHLB Đức). Ông sinh ra trong một gia đình luật sư gốc Do Thái. Ngay từ nhỏ Các Mác đã nhận được sự giáo dục tốt từ gia đình và chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần nhân đạo, yêu thương con người, yêu tự do, niềm say mê nghiên cứu khoa học. Các Mác cùng với Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại tiến bộ. Các Mác là nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Cả cuộc đời Ông đã công hiến cho sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng con người, giải phóng nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới để tiến tới xã hội cộng sản. Cho đến hiện nay, tư tưởng và sự nghiệp của Các Mác vẫn còn nguyên giá trị.
Năm 1830, khi lên 12 tuổi, Các Mác học trung học ở Trier, có tư chất thông minh, học giỏi, đặc biệt nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập, sáng tạo. Bên cạnh đó, Các Mác còn là người có năng lực về toán học.
Các Mác và Ăngghen - Ảnh sưu tầm
Mùa thu 1835, Các Mác tốt nghiệp trung học, sau đó, ông vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để học luật. Sau hai tháng, theo lời khuyên của cha, Các Mác theo học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. Ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ, Các Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Năm 1837, Các Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hêgel (1770-1831) - một triết gia Đức nổi tiếng và là người sáng lập ra học thuyết về phép biện chứng duy tâm. Năm 1839, ông nghiên cứu triết học của Épicure một trong những nhà tư tưởng lớn nhất thời Cổ đại. Các Mác đặc biệt đánh giá cao ý tưởng của Épicure, muốn vươn tới sự tự do và độc lập về tinh thần, muốn thoát khỏi những xiềng xích ràng buộc của tôn giáo và mê tín. Những năm tiếp theo ông tập trung nghiên cứu những vấn đề của lịch sử triết học Cổ đại.
Ngày 15/4/1841, khi mới 23 tuổi, Các Mác nhận được bằng Tiến sĩ Triết học tại trường Đại học Tổng hợp Jena. Thời gian này, tuy Các Mác vẫn còn theo chủ nghĩa duy tâm, nhưng Các Mác đã bảo vệ triệt để nhất lập trường cách mạng dân chủ cả trong lý luận và thực tiễn. Khoảng thời gian từ năm 1942-1843, Các Mác trở thành cộng tác viên và sau đó trở thành biên tập viên của tờ “Báo Sông Ranh”. Dưới sự lãnh đạo của Các Mác, tờ báo đã biến thành cơ quan của phái dân chủ cách mạng. Hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận đã khiến cho Các Mác xung đột trực tiếp với triết học của Hêgel. Do ảnh hưởng của triết học Feuerbach, Các Mác đã rời bỏ chủ nghĩa duy tâm của nhóm Hêgel trẻ và chuyển sang chủ nghĩa duy vật; chuyển từ lập trường cách mạng dân chủ sang lập trường cộng sản.
Năm 1843, ở Pháp, Các Mác đã cùng với Ac-nôn Ru-gơ xuất bản cuốn Niên giám Pháp – Đức” phê phán trật tự xã hội tư bản và vận động quần chúng đứng lên, đặc biệt là giai cấp vô sản. Các Mác đã phát hiện vai trò đặc biệt của giai cấp vô sản. Từ hiện thực khách quan sinh động ở nước Pháp đã giúp Các Mác hiểu sâu hơn cơ cấu nội tại của sự phát triển chủ nghĩa tư bản và những mâu thuẫn của nó. Năm 1844, Các Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này Các Mác phát triển một cách khoa học trong Bộ Tư bản. Thời gian này, Các Mác gặp được Ăng ghen ở Pháp, hai ông trở thành đồng chí và bạn, suốt đời trung thành với nhau vì sự nghiệp cách mạng vô sản.
Tượng Các Mác ở Mátxcơva (Nga) - Ảnh sưu tầm
Năm 1845-1848, ở Bỉ, Các Mác viết chung với Ăng ghen cuốn “Gia đình thần thánh”, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hêghel trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm, đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Và cuốn “Hệ tư tưởng Đức (1845-1846)”, trình bày lý luận về Chủ nghĩa cộng sản khoa học, tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghel và phái Hêghel trẻ, đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Luivich Feuerbach. Trong cuốn “Sự khốn cùng của triết học” (1847), Các Mác đã chống lại triết học tiểu tư sản của Proudhon và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vô sản. Năm 1848, được sự phân công của hội kín Liên hiệp những người cộng sản, Mác cùng với Ăngghen viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Mác và đảng vô sản, nó soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô sản đi đến thắng lợi.
Khi cách mạng tháng 02/1848 nổ ra ở Pháp, Các Mác bị trục xuất khỏi Brussel (Bỉ) về Pháp. Sau đó, tháng 3/1848, Các Mác về Đức ở Koln và ra “Báo miền Sông Ranh mới”. Năm 1849, Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất Mác. Ông lại đến Paris và chỉ lưu lại 3 tháng. Tháng 8/1849, từ Paris Các Mác đi London - thủ đô của Anh và sống đến cuối đời (năm 1883). Sau cuộc đảo chính năm 1851 ở Pháp, Các Mác viết cuốn “Ngày 18 tháng sương mù của Lu-i-Bô-na-pac-tơ” và cuốn “Phê phán kinh tế học chính trị”.
Năm 1864, Các Mác sáng lập ra Quốc tế thứ Nhất ở London và lãnh đạo tư tưởng nhằm chấm dứt tình trạng phân tán trong phong trào công nhân. Các Mác đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, bọn vô chính phủ, định ra sách lược cách mạng. Năm 1867, Các Mác đã cho xuất bản bộ “Tư bản” (tập 1) – tác phẩm khoa học chủ yếu của Các Mác, (Tập II và III Các Mác không kịp hoàn tất, Ăngghen đảm nhiệm việc xuất bản hai tập này).
Năm 1871, sau khi công xã Pari thất bại, Các Mác viết cuốn “Cuộc nội chiến ở Pháp”, nêu lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị như công xã Pari. Quốc tế thứ Nhất phải chuyển sang Mỹ rồi giải tán. Năm 1875, Các Mác viết cuốn “Phê phán cương lĩnh Gôta”, phê phán cương lĩnh của Đảng xã hội Dân chủ Đức, nêu lên chuyên chính vô sản là hình thức Nhà nước của thời kỳ quá độ cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 14/3/1883, Các Mác qua đời ở Pháp và được an táng tại nghĩa trang Highgate, phía Bắc nước Anh. 140 năm đã trôi, dù Các Mác không còn, nhưng tên tuổi của ông mãi đi vào lịch sử nhân loại như một bậc vĩ nhân trong lịch sử loài người. Cuộc đời và sự nghiệp của Các Mác là một cuộc hành trình gian nan, vất vả, một đời đấu tranh không mệt mỏi bằng lý thuyết và hành động cho chủ nghĩa cộng sản, cho cuộc đấu tranh tự giải phóng và giải phóng loài người khỏi sự thống trị của tư bản, để giành lấy tự do và hạnh phúc, giành lấy quyền làm chủ vận mệnh của mình.
Với ba phát kiến vĩ đại (sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người; quy luật giá trị thặng dư - tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản; xây dựng học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân), Các Mác đã xây dựng thành công hệ thống lý luận thống nhất, hoàn chỉnh mang tên ông - chủ nghĩa Mác, gồm ba bộ phận cấu thành là Triết học Mác-xít, Kinh tế chính trị Mác-xít và Chủ nghĩa xã hội khoa học gắn kết chặt chẽ với nhau. Đó là vũ khí lý luận và tư tưởng sắc bén mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã tìm thấy ở học thuyết của Mác và vận dụng trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, hướng tới một tương lai tươi sáng. Như vậy, ba phát kiến vĩ đại cũng là ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - ánh sáng cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, chấm dứt thời kì mò mẫm tìm đường giải phóng cho mình. Lênin đã từng ca ngợi: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là học thuyết hoàn bị và chặt chẽ, nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”.
Đối với lịch sử nhân loại, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một bước ngoặt vĩ đại trên con đường đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, chấm dứt thời kỳ mò mẫm như trong đêm tối của hàng triệu nhân dân lao động sống dưới ách áp bức và bóc lột, tìm đường giải phóng cho mình.
Chủ nghĩa Mác đã được Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển trong thời kì đế quốc chủ nghĩa. Cũng từ đó, chủ nghĩa Mác trở thành chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhờ ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác-Lênin, mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh để tự giải phóng. Cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một dòng thác lớn, góp phần làm biến đổi cục diện chính trị thế giới. Các dân tộc thuộc địa đã tìm thấy ở Cách mạng Tháng Mười Nga con đường mới cho sự nghiệp giải phóng, tìm thấy ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa một hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh giành giữ độc lập dân tộc. Nếu không có vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin và ảnh hưởng trực tiếp của Cách mạng Tháng Mười Nga thì không có sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong suốt thế kỷ XX, không có sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trong thế kỷ XX, cũng như sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Đối với dân tộc Việt Nam, có chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam mới tìm được con đường đi tới độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người cách mạng Việt Nam đầu tiên nhìn thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa cách mạng, khoa học vào trong giai cấp công nhân và Nhân dân lao động Việt Nam, soi tỏ con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930, tạo ra một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Trải qua 95 năm từ khi ra đời đến nay, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đó là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam; cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa. Tiếp đó, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Huy Dương