Những đóng góp to lớn của Đảng bộ, dân và quân Đồng Nai trong cuộc Tổng tiến công và nổi dây mùa Xuân năm 1975

01/05/2025 10:40:39 9      Chọn cỡ chữ A a  

Ngày 30/4/1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, dân và quân ta đã làm nên Đại thắng mùa xuân năm 1975, với đỉnh cao là chiến thắng Hồ Chí Minh lịch sử. Chiến thắng đó là niềm cổ vũ to lớn cho các tỉnh còn lại ở đồng bằng sông Cửu Long như Chương Thiện (nay là Hậu Giang), Cà Mau, Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An Giang), Bến Tre,… đã tiến hành giải phóng ngày 01/5/1975. Ngày 02/5/1975, Châu Đốc (nay là thuộc tỉnh An Giang) là tỉnh cuối cùng ở miền Nam được giải phóng, cuộc Tổng tiến công và nổi dây mùa Xuân năm 1975 toàn thắng, miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Thắng lợi đó đánh dấu kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975); chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chế độ phong kiến, chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp trực tiếp bằng quân sự vào Việt Nam trong suốt hơn một thế kỷ (1858-1975), đưa non sông thu về một mối, mở ra kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên độc lập dân tộc, thống nhất gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Cùng với cả nước, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dây mùa Xuân năm 1975 diễn ra từ ngày 04/3/1975-30/4/1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dân và quân Đồng Nai đã có nhiều đóng góp ghi dấu ấn sâu đậm, với những chiến công vang dội, trở thành huyền thoại của vùng đất “miền Đông gian lao mà anh dũng”, viết nên những sử hào hùng về “chủ nghĩa anh hùng cách mạng”, trong đó, có những trận tiến công và giành thắng lợi có tính quyết định. Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đồng Nai đã khẳng định vai trò then chốt trong việc góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước qua sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng chính trị, quân sự và quần chúng nhân dân địa phương. Những đóng góp ấy không chỉ là bằng chứng cho lòng yêu nước hào hùng của cả vùng mà còn thể hiện tinh thần đoàn kết và cách mạng toàn diện của cả tập thể.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dây mùa Xuân năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân trên địa bàn tỉnh (tỉnh Đồng Nai hiện nay có không gian bao gồm địa bàn tỉnh Biên Hòa, tỉnh Tân Phú và phần lớn tỉnh Bà Rịa - Long Khánh được sáp nhập sau năm 1975) đã có nhiều đóng góp quan trọng. Các cán bộ, đảng viên của bộ máy Đảng ủy và chính quyền Đồng Nai không những đã tạo dựng một hệ thống chỉ đạo vững mạnh từ các trung tâm điều hành cho đến các đơn vị cơ sở, mà còn đóng góp của lực lượng chiến đấu và dân quân, không chỉ có vai trò của lãnh đạo, các đơn vị quân đội được tập trung tại Đồng Nai - những lực lượng đã trải qua quá trình rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm qua nhiều chiến dịch - đã thể hiện sự năng động và linh hoạt trong chiến đấu. Họ đảm bảo hàng rào phòng thủ ở các tuyến đường hậu cần, tiến hành trinh sát và mở đường tiến công cho lực lượng trung ương. Sự tham gia tích cực của quân đội và tổ chức dân quân địa phương đã góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, là chìa khóa giúp cuộc tổng tiến công diễn ra nhanh chóng và quyết đoán. Nhân dân Đồng Nai đã nêu cao tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm, lòng yêu nước nồng nàn. Quân và dân Đồng Nai đã tự nguyện tham gia kháng chiến qua việc cung ứng nguyên liệu, thực phẩm, và chia sẻ thông tin tình báo quan trọng từ mặt trận. Sự đồng lòng và tinh thần hi sinh của họ không chỉ là nguồn động lực hậu cần thiết yếu mà còn tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, giúp các đơn vị chiến đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Những hành động này thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của toàn dân ta và góp phần không nhỏ vào chiến thắng của Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Những đóng góp của Đồng Nai trong giai đoạn lịch sử trọng đại ấy là minh chứng sống động cho sức mạnh của sự kết hợp giữa chính sách chỉ đạo đồng bộ của bộ máy cách mạng, sự dấn thân của lực lượng quân đội trường tồn và lòng nhiệt huyết, tinh thần chiến đấu không khuất phục của Nhân dân. Di sản ấy không chỉ được ghi dấu trong sử sách giải phóng miền Nam mà còn trở thành nguồn cảm hứng để các thế hệ tiếp bước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai.

Đặc biệt, quân và dân Đồng Nai đã phối hợp, hiệp đồng tác chiến, tạo nên những trận đánh quyết định của góp phần quan trọng vào Đại thắng Xuân năm 1975:

Chiến thắng Xuân Lộc mở “cánh cửa thép” giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:

Chiến dịch Xuân Lộc diễn ra từ ngày 09-21/4/1975 thắng lợi có vai trò và ý nghĩa quan trọng, đã đập tan “cánh cửa thép” của địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến dịch Xuân Lộc diễn ra trong bối cảnh chính quyền và quân đội Việt Nam cộng hòa chịu những thất bại liên tiếp trên các mặt trận Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và miền Đông Nam bộ, buộc chính quyền địch phải “tử thủ Sài Gòn”. Vì vậy, địch đã tổ chức tuyến phòng thủ kéo dài từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh, trong đó Xuân Lộc là “một mắt xích quan trọng quyết phải giữ”, là “cánh cửa thép” phía Đông Sài Gòn, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn. Xuân Lộc có vị trí chiến lược quan trọng đối với cả địch và ta, nằm cách Sài Gòn khoảng 80km về phía Đông, án ngữ các trục giao thông quan trọng như Quốc lộ 1A vào Sài Gòn, Quốc lộ 20 nối Sài Gòn với Đà Lạt và Quốc lộ 15 nối Sài Gòn với Bà Rịa - Vũng Tàu. Để giữ được Xuân Lộc, bằng mọi giá, quân địch đã tập trung một lực lượng, trang thiết bị, vũ khí quân sự lớn tại “tuyến phòng thủ Xuân Lộc” như: Sư đoàn 18 bộ binh, 01 Trung đoàn thiết giáp (100 xe), 01 Liên đoàn biệt động quân, 09 Tiểu đoàn bảo an, 02 Tiểu đoàn pháo binh (42 khẩu), 03 Đại đội biệt lập, 04 Trung đội pháo và các lực lượng cảnh sát, dân vệ, quân tại chỗ, cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác. Trong quá trình diễn ra chiến dịch, địch tăng cường Lữ đoàn Dù 1, Trung đoàn Bộ binh 8 (Sư đoàn 5), 01 Liên đoàn biệt động quân và 01 Trung đoàn thiết giáp chặn giữ đường Quốc lộ 1 và đường Quốc lộ 15 (nay là Quốc lộ 51) ở các khu vực Xuân Lộc, Biên Hòa và Long Khánh, Bà Rịa.

Về phía ta, đánh giá đúng tầm quan trọng của “cửa ngõ” Xuân Lộc, từ ngày 31/01-08/02/1975, Hội nghị Khu vực miền Đông đã chỉ rõ tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược của thị xã Long Khánh, xem việc tiến công và nổi dậy giải phóng thị xã là một trong những nơi dứt điểm cuối cùng. Ngày 29/3/1975, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã ra nghị quyết đặc biệt số 15 nêu rõ: “Từ giờ phút này, cuộc quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta bắt đầu nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà... Với khí thế tiến công quyết liệt, thần tốc, táo bạo và quyết giành toàn thắng, giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam”. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam với tinh thần chủ động, vận dụng sáng tạo phương châm ba mũi giáp công, quân và dân Long Khánh đã tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, giải phóng các ấp ven thị xã, khiến quân địch đã hoang mang càng hoang mang lo sợ. Cửa ngõ tiến vào thị xã từ phía Bắc đã mở, tuyến phòng thủ ven thị xã bị đập tan, chủ lực ta đẩy mạnh tiến công địch trên các hướng. Tại Bình Tây - Long Khánh, từ ngày 15/3/1975, Sư đoàn 6 kết hợp với lực lượng địa phương nổ súng tiến công các mục tiêu trên đường tỉnh lộ 3, đoạn từ Gia Ray đến Võ Đắc, đánh chiếm ngã ba Ông Đồn, đồi 52 Long Khánh; phát triển tiến công tiêu diệt hệ thống đồn bót từ khu vực Suối Cát đến căn cứ 3 Long Khánh, giải phóng đường Quốc lộ 1 đoạn từ Suối Cát đến Rừng Lá dài 50km, cắt đứt tuyến giao thông huyết mạch nối giữa miền Trung với Biên Hòa, Sài Gòn. Với những thắng lợi quan trọng của chủ lực ta ở trên đường Quốc lộ 1, tỉnh lộ 3 và giải phóng một số xã vùng ven đã tạo ra một hành lang bao vây siết chặt Long Khánh, tạo điều kiện cho chủ lực ta áp sát thị xã quan trọng này. Thắng lợi trên, là nhân tố đảm bảo thắng lợi mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương là: Tập trung lực lượng tăng, pháo thật mạnh đánh ngay Sư đoàn 18, tiêu diệt Xuân Lộc, áp sát Biên Hòa. Trên cơ sở nhận định tình hình chiến trường, ngày 02/4/1975, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền đã quyết định mở cuộc tiến công giải phóng Xuân Lộc, nhằm tiêu diệt Sư đoàn 18 ở vòng ngoài, phá âm mưu phòng ngự từ xa, phá thế phòng ngự củng cố Sài Gòn của địch, chia cắt giao thông, cô lập Sài Gòn. Nhiệm vụ tiến công Xuân Lộc được giao cho Quân đoàn 4 phối hợp với Sư đoàn Bộ binh 6 (Quân khu 7), hai Tiểu đoàn xe tăng, Trung đoàn pháo binh và 2 Tiểu đoàn bộ binh địa phương, cuối chiến dịch được tăng cường thêm Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325) và đại đội xe tăng. Thượng tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4 được cử làm Tư lệnh chiến dịch.

Theo kế hoạch đề ra, ngày 09/4/1975, Quân đoàn 4 đã nổ súng tiến công Xuân Lộc, tiến hành một chiến dịch gồm nhiều trận chiến đấu liên tiếp, liên kết chặt chẽ giữa nhiều đơn vị trong một không gian nhất định. Chiến dịch diễn ra vô cùng gay go, ác liệt nhưng quân ta đã chiếm được một nửa Xuân Lộc cùng toàn bộ khu hành chính tiểu khu. Trước thế mạnh của quân ta, địch đã điên cuồng chống trả. Ngày 12/4/1975, địch cho đổ Lữ đoàn 1 dù xuống chốt tại ngã ba Tân Phong; đồng thời, nhanh chóng bố trí lại thế trận phòng thủ ở thị xã; đưa Lữ đoàn 3 thủy quân lục chiến, Chiến đoàn 318 biệt động quân đến chốt giữ Trảng Bom, Chiến đoàn 322 biệt động quân đến chốt ở Bàu Cá và điểm cao 122; đưa Trung đoàn 8, Sư đoàn 5 từ Lai Khê sang tăng cường cho Bàu Cá; lệnh cho sân bay Biên Hòa và Tân Sơn Nhất tập trung 80 lần chiếc máy bay chiến đấu mỗi ngày trực tiếp chi viện cho các mũi phản kích. Như vậy, để cố thủ Xuân Lộc, địch đã tập trung trên 30% lực lượng bộ binh, 40% pháo binh và gần hết lực lượng xe tăng thiết giáp của Quân đoàn 3 và lực lượng tổng dự bị chiến lược của quân đội Sài Gòn.

Trước sự phòng thủ quyết liệt của địch, sau 03 ngày chiến đấu, mặc dù ta đã chiếm được một số mục tiêu, đẩy lùi được một số đợt phản kích nhưng vẫn chưa diệt gọn từng tiểu đoàn của địch, trong khi quân ta cũng gặp những tổn thất lớn. Trước tình hình trên, ta đã nghiên cứu diễn biến trận đánh, quyết định tổ chức lại lực lượng, thay đổi cách đánh từ tiến công trực tiếp chuyển sang thế trận bao vây, cô lập nhằm làm suy yếu lực lượng địch trong thị xã; tiêu diệt các lực lượng tiếp viện của địch mới được điều đến còn đứng chân chưa vững ở vòng ngoài. Đồng thời, ta nhận định toàn tuyến phòng thủ của địch chỉ có giá trị khi được nối liền với Biên Hòa. Bộ Chỉ huy chiến dịch và Quân đoàn 4 chủ trương đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt Quốc lộ 1, cô lập và tách rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa, ngăn chặn địch từ Biên Hòa, Trảng Bom lên tiếp ứng cho Xuân Lộc. Ngày 15/4/1975, pháo binh chiến dịch của ta pháo kích mãnh liệt vào sân bay Biên Hòa, Sư đoàn 6 có sự tăng cường của Trung đoàn 95B đã tiến công tiêu diệt Chiến đoàn 52, 01 Tiểu đoàn pháo, 01 Chi đoàn thiết giáp, chiếm giữ chi khu Gia Kiệm, ngã ba Dầu Giây, cắt đứt Quốc lộ 1 (đoạn Xuân Lộc đến Bàu Cá) và đường Quốc lộ 20 (đoạn Túc Trưng đến ngã ba Dầu Giây), tạo thế bao vây, cô lập hoàn toàn thị xã Long Khánh.

Bộ đội Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) tiến công giải phóng thị xã Xuân Lộc, đập tan tuyến phòng thủ mạnh nhất phía Đông Sài Gòn ngày 21/4/1975 (Ảnh minh họa)

Cùng thời gian, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 tiếp tục tiến công, đánh bại các Chiến đoàn 43 và 48, tiêu hao nặng Lữ đoàn 1 dù của địch; Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B tiến công Hưng Nghĩa và điểm cao 122, đẩy quân địch xuống Bàu Cá. Phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của quân chủ lực, bộ đội địa phương và du kích nhanh chóng tiêu diệt, bức hàng, bức rút hệ thống đồn bốt địch ở dọc các trục giao thông bao quanh thị xã. Khi chiến sự ở Xuân Lộc còn đang diễn ra trong thế giằng co, thì cánh quân duyên hải, nòng cốt là Binh đoàn Hương Giang, sau khi đập tan “lá chắn Phan Rang”, giải phóng Phan Thiết, Hàm Tân đã tiến vào khu vực Rừng Lá. Sức mạnh của một binh đoàn chiến lược thọc sâu vừa đánh tan những tập đoàn cứ điểm phòng thủ mạnh nhất của địch ở Huế, Đà Nẵng, Phan Rang càng làm cho tinh thần binh sĩ Sài Gòn ở Long Khánh hoang mang cực độ. 10 giờ đêm, ngày 20/4/1975, theo tỉnh lộ 2, toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc đã tháo chạy về hướng Bà Rịa - Vũng Tàu. 01 giờ sáng, ngày 21/4/1975, quân ta vào tiếp quản thị xã, tuyến phòng thủ cuối cùng của địch ở Xuân Lộc bị đập tan, Long Khánh giải phóng, “cánh cửa thép” phía Đông Sài Gòn được mở toang, tạo ra thế và lực mới để dân và quân ta mở hành lang chiến lược cho các binh đoàn chủ lực thực hiện thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trận mật đánh kho bom Bình Ý, bước vào tháng 3/1975, Trung đoàn Đặc công 113 được giao nhiệm vụ khẩn trương tổ chức lực lượng pháo kích vào Sân bay Biên Hòa và dùng 02 tiểu đoàn tiến công phá hủy kho bom Bình Ý. Trong 02 nhiệm vụ đó, việc đánh phá kho bom Bình Ý để địch không còn bom đánh phá quân ta là rất khó khăn. Bởi kho bom Bình Ý vốn nằm sâu trong vùng địch chiếm đóng, được xây dựng gần với Tổng kho Long Bình, cũng là kho vũ khí quan trọng của địch nên được bố trí 16 lớp rào kẽm gai và nhiều bãi mìn khác nhau bảo vệ, chưa kể một loạt hệ thống đồn bót, tháp canh dày đặc bao quanh, phòng thủ khá cẩn mật.

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Văn Sinh trong trận đánh kho bom Bình Ý. Ảnh: TL

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Văn Sinh trong trận đánh kho bom Bình Ý (Ảnh tư liệu)

Ngày 22/4/1975, Thường vụ Đảng ủy và Ban Chỉ huy Trung đoàn Đặc công 113 đã họp thông qua quyết tâm lần cuối và giao cho Đại đội 53 trinh sát đảm nhiệm, nhưng lực lượng đánh trực tiếp chỉ có 03 người, do đồng chí Hồ Văn Sinh chỉ huy. Trên cơ sở nắm tình hình địch và địa hình kho bom, nhất là những tài liệu do Tiểu đoàn Đặc công Tỉnh đội Biên Hòa cung cấp, tổ trinh sát 03 người (Sinh, Quỳnh, Lương) đã sử dụng kỹ thuật đặc công bí mật đột nhập kho bom Bình Ý làm nổ tung gần 250 ngàn tấn bom đạn và những bồn xăng bốc cháy nghi ngút rực sáng cả một góc trời. Trận đánh thắng lợi, tiêu hao lượng lớn vũ khí của quân địch, hạn chế các phi vụ ném bom để cản phá đội hình quân ta và tạo điều kiện để cho pháo chiến dịch của ta vào điểm xây dựng trận địa an toàn.

Chiến thắng Trảng Bom ngày 27/4/1975:

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Trảng Bom là trận đánh giành thắng lợi mở đầu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng Đông. Trảng Bom có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống phòng thủ bảo vệ chính quyền Việt Nam Cộng hòa từ phía Đông. Việc gỡ bỏ “cái then chốt” Trảng Bom được Sư đoàn 341 Quân đoàn 4 thực hiện trong thế trận có lợi, cùng các cánh quân tiến về giải phóng Sài Gòn. Trảng Bom - một mắt xích trọng yếu trên tuyến phòng ngự phía trước của địch, mất Trảng Bom, tuyến phòng ngự của địch bị đứt gãy trên hướng Đông, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ lực cơ động lực lượng tác chiến, mở đường tiến quân về Sài Gòn, thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng, khát vọng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Trận đánh Trảng Bom thắng lợi đã phá vỡ một mắt xích quan trọng, tạo thuận lợi cho Quân đoàn 4 cùng các “binh đoàn cơ động thọc sâu trên từng hướng” của chiến dịch cơ động tiến vào 05 mục tiêu đầu não của địch trong nội đô Sài Gòn.

Sau hơn 20 ngày Tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã giành những thắng lợi to lớn. Nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến, ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị chủ trương “tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kỹ thuật và vật chất giải quyết xong Sài Gòn - Gia Định trước mùa mưa”. Tiếp đó, ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định: Chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thế trận và lực lượng áp đảo, Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh xác định cách đánh: Dùng một lực lượng thích hợp trên từng hướng đủ sức hình thành bao vây, chia cắt, chặn giữ quân địch không cho chúng rút chạy hoặc lùi dồn về Sài Gòn. Tiêu diệt và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch phòng thủ vòng ngoài; đồng thời, dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ở vùng ven, mở đường cho các binh đoàn cơ giới mạnh, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 05 mục tiêu chủ yếu đã được chọn trong nội thành. Để tiến vào nội đô, các binh đoàn tham gia chiến dịch phải tổ chức những trận đánh lớn đánh bại quân địch ở vòng ngoài. Sau khi nhận nhiệm vụ, Quân đoàn chủ trương dùng một lực lượng tiêu diệt yếu khu Trảng Bom, nếu không diệt gọn thì bao vây chặt, không cho địch rút chạy về Biên Hòa để bảo đảm đường cơ động cho lực lượng của Quân đoàn tiến công vào Biên Hòa và Sài Gòn. Ngày 25/4/1975, Quân đoàn 4 bổ sung nhiệm vụ cho Sư đoàn 341 cùng lực lượng tăng cường tiêu diệt địch từ ngã ba Sông Thao về Suối Đỉa; nếu không diệt gọn thì kiên quyết bao vây chặt, không cho địch rút chạy về Biên Hòa. Yêu cầu tác chiến: Thần tốc, đánh tiêu diệt lớn, đánh tan rã lớn, mở cửa lớn và rộng. Thời gian nổ súng vào đêm 26, rạng sáng 27/4/1975. Xác định đây là trận đánh mở màn có ý nghĩa quan trọng trên hướng Đông, chiều 25/4/1975, Thường vụ Đảng ủy Sư đoàn 341 họp, thống nhất: Tập trung toàn bộ binh lực, hỏa lực, kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch trong thời gian ngắn nhất. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhanh chóng củng cố lực lượng, sẵn sàng cùng lực lượng bạn phát triển vào giải phóng Biên Hòa, Sài Gòn. Tư tưởng chỉ đạo: Tập trung lực lượng có trọng điểm trên hướng chủ yếu. Thọc sâu bao vây, chia cắt nhanh, tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tiến công liên tục, thần tốc, đánh cả ngày lẫn đêm, đánh đến khi dứt điểm hoàn toàn. Sư đoàn 341 tổ chức bố trí lực lượng: Trung đoàn Bộ binh 270 được tăng cường 02 đại đội xe tăng, 01 trung đội pháo 85mm, 01 trung đội cối 120mm đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu từ phía Bắc. Trung đoàn Bộ binh 273 được tăng cường 01 trung đội pháo 85mm, 01 trung đội cối l20mm, đảm nhiệm tiến công trên hướng thứ yếu từ phía Đông Bắc. Tiểu đoàn 8, Trung đoàn Bộ binh 266 được tăng cường 01 đại đội xe tăng tiến công trên hướng phối hợp từ phía Đông Nam. Trung đoàn Bộ binh 266 (thiếu) làm lực lượng dự bị của Sư đoàn. Trung đoàn Pháo binh 4 và các phân đội được tăng cường tổ chức một cụm pháo và một cụm cao xạ chi viện chung.

Sáng 27/4/1975, Sư đoàn 341 nổ súng tiến công địch. Sau khi pháo bắn chuẩn bị, từ các hướng, quân ta nhanh chóng mở thông các cửa mở, đưa lực lượng vào tiến công địch. Đến 8 giờ 30 phút cùng ngày, Sư đoàn 341 cơ bản tiêu diệt toàn bộ quân địch và làm chủ từ ngã ba địa phận Sông Thao đến Tây Trảng Bom, dồn lực lượng còn lại của địch về phía Suối Đỉa, Long Lạc. 10 giờ 30 phút, toàn bộ quân địch ở Suối Đỉa bị tiêu diệt. Trận đánh Trảng Bom là trận đánh giành thắng lợi mở đầu Chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng Đông. Với kết quả đó, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 341 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, mở cửa thành công, tạo điều kiện cho Quân đoàn 4 cơ động lực lượng vào giải phóng Biên Hòa, Sài Gòn.

Thắng lợi Trảng Bom góp phần đập tan tuyến phòng ngự Trảng Bom - Biên Hòa - Hố Nai của địch. Sau khi mất Xuân Lộc, Sư đoàn 18, Quân đoàn 3 của địch cùng một số đơn vị tập trung lực lượng phòng thủ nhằm cứu vãn tình thế và ngăn chặn quân ta bao vây tiến công theo trục đường số 1. Ngày 25/4/1975, địch vội vã điều chỉnh tổ chức Trảng Bom thành một cứ điểm mạnh trên tuyến phòng thủ Trảng Bom - Biên Hòa - Sài Gòn. Tuyến phòng ngự của địch ở Trảng Bom có thế liên hoàn từ ấp Hưng Nghĩa qua Trảng Bom - Suối Đỉa - Hố Nai với chiều dài 14km. Tại đây, địch bố trí lực lượng gồm 03 Chiến đoàn bộ binh (48, 43 và 52), 02 Chi đoàn thiết giáp (1, 3) và Chiến đoàn 315, tập trung chủ yếu ở hướng Đông và Đông Bắc, nơi có 07 trận địa pháo binh. Ngoài ra, còn một số đơn vị bảo an, dân vệ được bố trí bên trong các vị trí phòng ngự, như: Chiến đoàn 48 ngăn chặn phía Đông Trảng Bom; Tiểu đoàn 1 ở hướng Đông Bắc Trảng Bom; Tiểu đoàn 2 ở Bàu Cá; Tiểu đoàn 3 và Sở chỉ huy Chiến đoàn 48 đóng ở khu vực ấp Dương Ngơ; Chiến đoàn 43 ở yếu khu và khu vực ga Sông Mây; Chiến đoàn 52 bảo vệ phía Tây Bắc. Trung tâm yếu khu gồm Đông Trảng Bom, Bắc Bàu Cá, Suối Đỉa, sân Chợ, ấp Dương Ngơ, ga Sông Mây. Ở ngã ba Sông Thao do Tiểu đoàn 316 bảo an và 2 đại đội độc lập đóng quân. Hệ thống công sự trận địa chủ yếu dựa vào các chốt, công sự tương đối vững chắc; công sự vòng trong khá kiên cố, có các hầm ngầm, tháp canh, lô cốt. Vật cản gồm 3 lớp hàng rào dây thép gai. Trong quá trình chiến đấu, địch được chi viện trực tiếp của Lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến ở Hố Nai, dốc Ông Bàng, Suối Đỉa. Thực hiện mệnh lệnh tiến công, trên hướng chủ yếu, mũi của Tiểu đoàn 6 vượt qua cửa mở đánh vào Tiểu đoàn 3 địch. Tiểu đoàn 5 men theo bìa rừng cao su đánh thẳng vào trận địa của Tiểu đoàn 1 địch. Sau đó, hai tiểu đoàn phát triển theo chiến hào vành khăn dồn địch vào trung tâm và tiếp tục đột phá tiến công vào trung tâm yếu khu. Trên hướng thứ yếu, Tiểu đoàn 3 sau khi tiêu diệt một số lực lượng địch ở vòng ngoài cũng đột phá đánh vào bên trong yếu khu. Tiểu đoàn 1 tổ chức 2 mũi, 1 mũi đánh vào chốt tam giác, 1 mũi đánh vào trận địa pháo. Trên hướng tiến công chủ yếu, các phân đội hỏa lực của ta, đặc biệt là trận địa súng máy cao xạ ở Nam Suối Rết đánh mạnh vào đội hình phản kích của địch, dồn chúng trở lại khu trung tâm. Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6, sau khi củng cố lực lượng đã hiệp đồng chặt chẽ với Tiểu đoàn 3 (trên hướng thứ yếu) tiếp tục tiến công vào trung tâm yếu khu; các phân đội hỏa lực đi cùng, các tổ đánh tăng lần lượt tiêu diệt xe tăng, xe bọc thép và các ổ đề kháng của địch, chi viện cho bộ binh đánh chiếm từng khu vực mục tiêu. Phân đội thọc sâu của Tiểu đoàn 5 dùng bộc phá tiêu diệt toàn bộ chỉ huy địch dưới hầm ngầm. 8 giờ 30 phút ngày 27/4/1975, quân ta đã làm chủ yếu khu và một khu vực dọc theo Đường số 1 dài 14km từ ngã ba Sông Thao đến Trảng Bom. Trên hướng tiến công phối hợp, Tiểu đoàn 8 cùng phân đội xe tăng được pháo binh chi viện, đánh vào khu vực phòng ngự của địch dài 7km trên Đường số 1 ở Hưng Nghĩa, Dương Ngơ, Bàu Cá. Kết quả, ta diệt và bắt hơn 300 tên địch, phá hủy 7 xe tăng, thu 10 xe quân sự, 1 khẩu pháo 105mm, làm chủ khu vực từ Dầu Giây đến Bắc Trảng Bom.

Đánh chiếm xong yếu khu Trảng Bom, Trung đoàn 273 sử dụng bộ binh, xe tăng cùng Tiểu đoàn 4 phát triển tiến công tiêu diệt địch ở Suối Đỉa. Sau đó, dựa vào công sự của địch, củng cố lại trận địa chốt, bố trí hỏa khí trên các điểm cao, sẵn sàng ngăn chặn địch rút chạy. Kết quả, ta tiêu diệt và làm tan rã các Chiến đoàn 43, 48, 52 thuộc Sư đoàn 18 bộ binh, 2 chi đoàn xe tăng, trung tâm yếu khu, sở chỉ huy chiến đoàn 43 và 48, Tiểu đoàn bảo an và đại đội biệt lập của địch, bắt 1.715 tên tù binh, làm tan rã hệ thống chính quyền địch ở cơ sở, giải phóng đất đai và hơn 10.000 dân. Đến đây, cứ điểm phòng thủ Trảng Bom của ngụy bị tan vỡ.

Trận đánh góp phần giữ thế, tạo đà, cổ vũ tinh thần tiến công theo chiều sâu chiến dịch. Căn cứ tính chất phòng ngự của địch và địa hình khu vực tác chiến, Sư đoàn 341 đã vận dụng hình thức chiến thuật và cách đánh đúng, hình thành thế bao vây, chia cắt địch, đánh đúng mục tiêu chủ yếu Trảng Bom và các mục tiêu quan trọng khác, tiêu diệt đại bộ phận lực lượng của Sư đoàn 18 của địch. Thắng lợi nhanh chóng của trận Trảng Bom có ý nghĩa quan trọng, mở cửa mở, tạo điều kiện cho Quân đoàn phát triển thế tiến công theo chiều sâu chiến dịch, đồng thời giữ thế, tạo đà cho toàn chiến dịch. Phối hợp nhịp nhàng với hướng Đông, các cánh quân trên các hướng khác cũng đẩy mạnh tiến công địch, đánh chiếm mục tiêu then chốt được giao. Nhận tin chiến thắng Trảng Bom, Bộ Tổng Tư lệnh nhanh chóng chỉ đạo cánh quân hướng Đông: “Nếu đã đến mục tiêu trước mắt sớm hơn thời gian quy định thì không nên chờ các cánh khác phối hợp chung mà nên phát triển ngay”. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh, Quân đoàn gấp rút tổ chức lực lượng tiến công địch ở Hố Nai, Biên Hòa. Tại đây, địch chống trả quyết liệt, nhưng đến rạng sáng 29/4/1975, buộc phải rút chạy về Gò Vấp. Quân đoàn 4 đẩy nhanh tốc độ tiến công, thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu được giao. 11 giờ 30 phút, ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc toàn thắng. Chiều cùng ngày, Quân đoàn 4 cùng các lực lượng nhanh chóng thiết lập trật tự, tham gia xây dựng chính quyền, lực lượng vũ trang địa phương, duy trì và giữ gìn trật tự trị an trong thành phố, bảo vệ các cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 kết thúc toàn thắng. Đó là thành quả vĩ đại của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Thắng lợi đó được cấu thành từ kết quả của nhiều trận đánh ác liệt, gian khổ, trong đó, có trận Trảng Bom do Sư đoàn 341, Quân đoàn 4 đảm nhiệm. Cùng với Nhân dân và các đơn vị bạn, Sư đoàn 341 đã góp phần mở rộng hành lang, xây dựng bàn đạp, đánh trận mở đầu thắng lợi, phá tan tuyến phòng thủ mạnh nhất của địch trên hướng Đông.

Quân giải phóng tiến vào tiếp quản Tòa hành chính tỉnh Biên Hòa trưa 30-4-1975. Ảnh: Tư liệu

Quân giải phóng tiến vào tiếp quản Tòa hành chính tỉnh Biên Hòa trưa 30/4/1975 (Ảnh tư liệu)

Có thể khẳng định rằng, đại thắng 30/4/1975 là mốc son chói lọi nhất trong lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Sau ngày miền Nam giải phóng (30/4/1975), tỉnh Đồng Nai phải đối mặt với muôn vàn khó khăn trong khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống Nhân dân và khôi phục, xây dựng và phát triển sản xuất. Với quyết tâm chính trị cao, sự đoàn kết của toàn Đảng bộ tỉnh qua các thời kỳ và sự đồng lòng của toàn dân và toàn quân, tỉnh Đồng Nai đã vượt qua khó khăn, khẳng định vị thế là tỉnh động lực tăng trưởng quan trọng ở khu vực phía Nam và có đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước. Đến nay, Đồng Nai đã trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, là đầu mối giao thương quan trọng, có tốc độ tăng trưởng thuộc tốp đầu cả nước. Công tác chăm lo cho các gia đình chính sách, người có công, người có hoàn cảnh khó khăn được tỉnh quan tâm, thực hiện thường xuyên và hiệu quả. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng nâng cao. Quốc phòng - an ninh được giữ vững ổn định. Công tác xây dựng Đảng, đoàn thể, chính quyền tiếp tục được tăng cường. Những thắng lợi đó đã tiếp thêm động lực và củng cố vững chắc niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và Nhân dân tỉnh Đồng Nai nguyện phát huy tinh thần đoàn kết, truyền thống anh hùng cách mạng, không ngừng đổi mới, sáng tạo phát triển, tất cả vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Lê Sơn

 

 

Bản in
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

    Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

  • Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

    Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

  • Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

  • Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

    Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

  • Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

  • Hôm nay:   25027
  • Tháng hiện tại:   414709
  • Tổng lượt truy cập:   8047163