Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888-30/3/1980) tại An Giang là Người chiến sĩ cộng sản kiên trung của cách mạng Việt Nam, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội; có nhiều đóng góp vô cùng quan trọng cho phong trào công nhân và cách mạng Việt Nam, trong đó, có quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người đầu tiên được trao tặng Huân chương Sao Vàng, phần thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta, tôn vinh những đóng góp to lớn, tinh thần đoàn kết, đức hy sinh của Đồng chí đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Trong quá trình vận động thành lập Đảng, sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam là một nhân tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định tới tính chất, bản chất giai cấp công nhân (GCCN) của Đảng. Tôn Đức Thắng là một trong những thành viên có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phong trào công nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX phát triển dần từ tự phát lên tự giác, gắn liền với quá trình phấn đấu và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sinh ra trong hoàn cảnh nước nhà đang bị thực dân Pháp đô hộ, từ truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của quê hương, ngay từ lúc còn thời niên thiếu, Bác Tôn đã có tinh thần yêu nước lớn lao, sớm tham gia hoạt động cách mạng và giác ngộ lý tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường tỉnh Long Xuyên năm 1906, Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn với ý định học việc và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Đây là thời điểm thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất, phong trào công nhân cũng bắt đầu nổi lên từ giai đoạn này. Nhận ra sức mạnh và những bất công mà GCCN phải chịu đựng, càng giúp Tôn Đức Thắng thêm quyết tâm thực hiện lý tưởng, khát vọng làm những việc hữu ích cho đất nước, cho dân tộc và GCCN. Tôn Đức Thắng đã lựa chọn thi vào Trường Bá Nghệ để làm thợ. Đây là bước ngoặt quan trọng đầu tiên trong cuộc đời Tôn Đức Thắng - từ đây, Ông đã hòa mình vào phong trào đấu tranh của GCCN chống lại chính quyền thực dân đang áp đặt ách thống trị tàn bạo đối với công nhân, Nhân dân lao động Việt Nam.
Năm 1909, Tôn Đức Thắng tham gia vận động anh em học sinh lính thủy bãi khóa. Năm 1910, tham gia vận động anh chị em công nhân Sở Kiến trúc cầu đường và nhà ở Sài Gòn chống bọn chủ, cai đánh đập công nhân vô lý và đòi tăng lương. Năm 1912, tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son và vận động học sinh trường Cơ khí Á Châu (trường Bá Nghệ Sài Gòn) bãi khóa. Thắng lợi của cuộc đấu tranh bãi công đó đã tiếp thêm niềm tin cho Tôn Đức Thắng vào sức mạnh của GCCN và đem lại những kinh nghiệm bước đầu trong việc vận động đoàn kết, tập hợp công nhân chống lại bọn tư bản thực dân.
Năm 1915, Tôn Đức Thắng vào học trường Cơ khí Á Châu ở Sài Gòn. Năm 1916, Tôn Đức Thắng làm việc trên chiến hạm Phơ-răng-xơ (France). Tại đây, Tôn Đức Thắng đã tham gia cuộc binh biến, phản đối hành động can thiệp chống nước Nga và tham gia vào sự kiện kéo cờ đỏ trên chiến hạm Phơ-răng-xơ ở Biển Đen vào ngày 20/4/1919. Với sự kiện này, chúng ta có thể khẳng định: cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên ủng hộ cách mạng tháng Mười Nga, ủng hộ chính quyền Xô Viết với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng [1]. Có thể coi đây như sự phát triển quan trọng trong tư tưởng chính trị của Tôn Đức Thắng, hướng về tư tưởng, lý tưởng của cách mạng tháng Mười Nga, lý tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.
Sau khi bị trục xuất về nước, năm 1920, trở về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng tích cực tham gia hoạt động nghiệp đoàn và phong trào của GCCN, nhận thức rõ ràng về sự cần thiết phải có tổ chức trong công nhân mới có thể đem lại quyền lợi thiết thực. Vì thế, đến cuối năm 1920, Ông bí mật thành lập và lãnh đạo Công hội bí mật ở Sài Gòn - hình thức tổ chức đầu tiên của GCCN Việt Nam, với mục đích chính là đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau và đấu tranh chống ách áp bức bóc lột của chính quyền thực dân, bênh vực quyền lợi của công nhân. Đồng chí Tôn Đức Thắng được các hội viên cử làm Hội trưởng, sự kiện này đánh dấu sự chuyển biến mới của GCCN nước ta từ thời kỳ chưa có tổ chức sang thời kỳ có tổ chức, tạo nên cơ sở xã hội quan trọng để GCCN vươn lên tiếp nhận học thuyết cách mạng, khoa học, tiên tiến của thời đại - học thuyết Mác - Lênin.
Việc thành lập Công hội bí mật vào cuối năm 1920 là một sự kiện rất có ý nghĩa đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng nói riêng và với phong trào công nhân cả nước nói chung. Những cơ sở đầu tiên của công hội được thành lập ở Sài Gòn như: Cảng Sài Gòn, Xưởng Ba Son, Hãng Faci, Nhà máy đèn Sài Gòn, Nhà máy đèn Chợ Quán... đây là những cơ sở công hội nòng cốt, sau phát triển ra các cơ sở trong thành phố.
Xưởng Ba Son là nơi đóng tàu lâu đời nhất Sài Gòn và là công trường thủ công lớn nhất của Sài Gòn đầu thế kỷ XX (Ảnh tư liệu)
Từ năm 1920 đến 1925, tổ chức công hội phát triển mạnh về số lượng (tới 300 người) và chất lượng. Hoạt động của công hội bí mật đã có tác dụng thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân ở Sài Gòn, tiêu biểu như cuộc bãi công của 600 thợ Nhuộm Chợ Lớn có tính chất toàn ngành, thể hiện ý thức liên kết giai cấp của công nhân thợ nhuộm (11/1922). Sự kiện này đã được Nguyễn Ái Quốc nhắc đến trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản ở Paris đầu tiên năm 1925), coi đây là dấu hiệu của GCCN “bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình”. Đặc biệt, nổi bật nhất vẫn là cuộc bãi công của hơn 1.000 công nhân Xưởng Ba Son bắt đầu từ ngày 04/08/1925 gắn liền với vai trò tổ chức của Tôn Đức Thắng. Xưởng Ba Son là cơ sở chuyên đóng và sửa chữa tàu thủy lớn nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam, được thành lập năm 1864.
Ngày 04-8-1925, cuộc bãi công nổ ra với mục đích nhằm giữ lại chiếc tàu Michelet đang được sửa chữa ở Xưởng Ba Son, không cho Pháp dùng tàu này chở binh lính sang đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc bãi công cũng nêu yêu sách đòi tăng lương 20%, đòi những người thợ bị đuổi được trở lại làm việc. Ban lãnh đạo Công hội đã vận động công nhân, viên chức các nhà máy khác trong thành phố ủng hộ công nhân Ba Son. Ngày 12-8, cuộc bãi công của công nhân Ba Son đã giành thắng lợi. Đây là cuộc đấu tranh điển hình và tiêu biểu cho phong trào công nhân Việt Nam, thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của tổ chức Công đoàn do Tôn Đức Thắng lập ra. Cuộc đấu tranh không chỉ với mục tiêu kinh tế mà còn có mục tiêu chính trị rõ rệt, mang tinh thần quốc tế vô sản của GCCN Việt Nam.
Như vậy, có thể khẳng định, sự ra đời Công hội bí mật và cuộc bãi công của công nhân Ba Son do Công hội lãnh đạo là những sự kiện tiêu biểu đánh dấu sự phát triển rất quan trọng của phong trào công nhân Việt Nam, khẳng định sự giác ngộ chính trị của GCCN, tạo ra tiền đề quan trọng cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam. Giáo sư Trần Văn Giàu chỉ rõ công lao của người Hội trưởng Công hội bí mật: “...ở Bắc, ở Nam và nhất là Sài Gòn, các cuộc đấu tranh hồi 1924-1925 được ảnh hưởng trực tiếp của những người công nhân Việt Nam đã từng ở Pháp, chịu ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga, của phong trào công nhân và công đoàn Pháp, tiêu biểu nhất là anh thợ máy Tôn Đức Thắng - người đã từng tham gia binh biến Biển Đen năm 1919”[2].
Từ sau cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son, dưới sự lãnh đạo của Công Hội bí mật, phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn mang sắc thái mới, các cuộc đấu tranh của công nhân liên tiếp nổ ra, quy mô và trình độ tổ chức ngày một nâng lên, tiêu biểu như: Sở Bưu điện Sài Gòn (01/1926); công nhân Nhà in Trung ương (4/1926); Công nhân, viên chức Nhà băng Đông Dương (5/1926)... Đây cũng là thời điểm lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang tích cực, khẩn trương mở lớp đào tạo lớp thanh niên cách mạng tại Quảng Châu (Trung Quốc) để từng bước đưa về nước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam thông qua việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên vào tháng 6/1925.
Tháng 10/1926, các đồng chí Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Lợi được Nguyễn Ái Quốc cử về Nam bộ xây dựng tổ chức đã có mặt tại Sài Gòn, đầu năm 1927 liên lạc được với đồng chí Tôn Đức Thắng và các đồng chí lãnh đạo công hội, sau đó, đồng chí Tôn Đức Thắng cùng nhiều cán bộ Hội viên ở Sài Gòn, Mỹ Tho được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Bắt đầu từ giai đoạn này, Công hội bí mật dưới sự lãnh đạo của Hội trưởng đã thật sự hoạt động dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, với phương hướng gắn đấu tranh của GCCN với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Giữa năm 1927, Tôn Đức Thắng được cử làm Ủy viên ban chấp hành Kỳ bộ Nam Kỳ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn, được phân công trực tiếp phụ trách công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, Đồng chí đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân. Trên cơ sở các tài liệu từ bên ngoài gửi về, như Báo Thanh niên, cuốn Đường cách mệnh, cuốn Vỡ lòng chủ nghĩa cộng sản và nhiều tài liệu mácxít khác bằng tiếng Pháp, Kỳ bộ và một vài tỉnh bộ đã mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng chính trị ngắn ngày cho các hội viên mới.
Bên cạnh việc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong phong trào công nhân, đồng chí Tôn Đức Thắng với tư cách là Hội trưởng cùng đồng chí Phan Trọng Bình lựa chọn, cử người đi Quảng Châu dự các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc mở. Trong lớp huấn luyện khóa III, trong 09 người được cử từ Sài Gòn sang có 05 người là hội viên Công Hội, sau khi học xong, các đồng chí này đều trở lại Nam bộ tham gia cách mạng, phong trào ngày càng lớn mạnh.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bị phân liệt trước yêu cầu nhanh chóng thành lập tổ chức đảng trong toàn quốc, trước tình hình đó, các đồng chí ở Kỳ bộ tích cực chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Thực dân Pháp mở đợt khủng bố, lùng bắt hội viên khắp nơi sau sự kiện ngày 08/12/1928. Đồng chí Tôn Đức Thắng cũng bị bắt 23/7/1929, sau hơn 01 năm bị giam ở Khám lớn Sài Gòn, ngày 25/6/1930, Tòa đại hình Pháp kết án 20 năm khổ sai, với tội danh chính là: “tham gia với tư cách phụ trách và là thành viên hội kín, hoạt động phá rối an ninh công cộng, gây rối loạn chính trị nghiêm trọng, gây hận thù, chống lại chính phủ Pháp và chính phủ bảo hộ... đã đồng lõa với âm mưu chống lại an ninh Nhà nước”[3].
Mặc dù các đồng chí trong kỳ bộ Nam Kỳ bị bắt, song, việc thành lập tổ chức đảng ở Nam Kỳ đã được các đồng chí Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu và các đồng chí khác bàn thảo, cuối tháng 8/1929 An Nam cộng sản Đảng được thành lập do đồng chí Châu Văn Liêm làm Bí thư, đồng chí Tôn Đức Thắng được công nhận là đảng viên của An Nam Cộng sản Đảng.
Vượt qua gian nan thử thách lớn nhất trong cuộc đời cách mạng, qua 17 năm bị thực dân Pháp giam cầm tại Khám Lớn Sài Gòn và địa ngục Côn Đảo, đồng chí Tôn Đức Thắng đã thể hiện rõ lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, rất tin tưởng vào sự thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Trải qua chặng đường hơn 60 năm tham gia cách mạng, được Đảng và Nhà nước giao nhiều trọng trách lãnh đạo, Tôn Đức Thắng tỏ rõ là lớp thế hệ đầu tiên tiên phong trong phong trào đấu tranh của GCCN Việt Nam, có vai trò to lớn trong việc thành lập tổ chức An Nam Cộng sản Đảng ở Nam bộ - một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để sau đó, với uy tín, trí tuệ của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam 03/02/1930, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc trong con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị. Trên 60 năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng vinh dự là người đầu tiên được Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta, được Đảng, Nhà nước ta trao tặng Huân chương Đại đoàn kết.... Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân”[4]. Qua 22 năm (1907-1929), Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã hoạt động liên tục trong phong trào đấu tranh của GCCN, xây dựng tổ chức Công hội, từng bước giác ngộ lý tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, sau đó, truyền bá vào phong trào công nhân Việt Nam. Phong trào của Công hội do Chủ tịch Tôn Đức Thắng lãnh đạo đã tạo tiền đề quan trọng cho việc thành lập chính đảng của GCCN ở Việt Nam. Mặc dù không trực tiếp lãnh đạo thành lập tổ chức đảng, nhưng sự ra đời của An Nam Cộng sản Đảng tại Nam bộ cho thấy vai trò rất to lớn của Tôn Đức Thắng cho bước tiến tới hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Hơn 94 năm xây dựng và phát triển, Đảng ta luôn tưởng nhớ công lao to lớn của lãnh tụ Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong đó, có công lao của vị Hội trưởng “công hội bí mật” Tôn Đức Thắng trong phong trào của “công hội bí mật”, luôn khắc ghi, kính trọng và noi theo tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân” [5].
----
[1] Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - Ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Tỉnh ủy An Giang, Chủ tịch Tôn Đức Thắng với cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính-Hà Nội 2008.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.520.
[3], [5] Học viện chính trị - Hành chính khu vực IV, Tôn Đức Thắng một nhân cách lớn, Cần Thơ, 2008.
[4] Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Ban Tuyên giáo Trung ương - Tỉnh ủy An Giang, Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, nhà lãnh đạo nổi tiếng của cách mạng Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018.
Lê Sơn