Cách đây 79 năm, ngày 09/5/1945, Đức quốc xã ký biên bản đầu hàng Hồng quân Liên Xô và quân Đồng minh, đánh dấu Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt tại châu Âu. Ngày Chiến thắng phát xít 09/5 trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử thế giới, là ngày chiến thắng chung của các lực lượng dân chủ và hòa bình, đặt biệt là Nhân dân và Hồng quân Liên Xô, đập tan chủ nghĩa phát xít, giành lại hòa bình cho nhân loại. Trong thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Nhân dân đã anh dũng đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít Nhật, giải phóng dân tộc, đóng góp vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít.
Đại diện Đức quốc xã đã ký văn bản đầu hàng không điều kiện Liên Xô và các nước Đồng minh, chấm dứt Chiến tranh Thế giới lần thứ hai tại châu Âu (Ảnh tư liệu)
Chủ nghĩa phát xít xuất hiện đã gây cho nhân loại những đau thương, chưa từng có trong lịch sử mà điển hình là cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) do các nước phát xít Ðức, phát xít Italy và phát xít Nhật Bản phát động. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia, dân tộc khác trên thế giới chịu hậu quả nặng nề của chính sách áp bức, bóc lột và hậu quả ghê gớm của cuộc đấu tranh do chủ nghĩa phát xít gây ra. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 10/1930-02/1951) Nhân dân ta đã cùng lực lượng dân chủ Đồng minh đấu tranh với chủ nghĩa phát xít và chiến tranh phát xít mà trực tiếp là chống phát xít Nhật, giành độc lập dân tộc.
Vai trò của Đảng ta trong việc “ủng hộ nhân dân Xô Viết”, tự nguyện đứng vào hàng ngũ tiên phong chống chủ nghĩa phát xít. Ngày 01/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng lan rộng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình Việt Nam. Tháng 6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Tháng 9/1940, phát xít Nhật vượt biên giới Việt - Trung vào Đông Dương. Thực dân Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng phát xít Nhật và cùng với phát xít Nhật cấu kết chặt chẽ với nhau thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân ba nước ở Đông Dương phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra vô cùng bức thiết.
Trong bối cảnh đó, cùng với việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, Ðảng ta chủ trương đề cao khẩu hiệu "Ủng hộ Liên bang Xô Viết". Tháng 11/1939, Nghị quyết Trung ương Ðảng chỉ rõ: Phong trào nhân dân giải phóng ở các nước tư bản và phong trào dân tộc giải phóng ở các nước thuộc địa trong giờ nghiêm trọng này cần phải cùng Liên Xô kết thành một mặt trận chống đế quốc chiến tranh, chống đế quốc chủ nghĩa toàn thế giới… Lúc này, “cuộc đấu tranh chống phát xít của Liên Xô là cuộc đấu tranh chung của các dân tộc Ðông Dương"[1]. Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (11/1940) của Đảng được mở rộng và nâng lên thành "Liên minh với Liên bang Xô Viết và ủng hộ Liên bang Xô Viết"[2] và chủ trương thành lập “Mặt trận thống nhất phản đế giữa các dân tộc bị áp bức ở Viễn Đông"[3]. Ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chỉ đạo xây dựng thí điểm Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng nhằm rút kinh nghiệm cho phong trào cả nước. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã phân tích tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai, dự đoán phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển và giành nhiều thắng lợi. Hội nghị quyết định hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và “vận dụng một phương pháp hiệu triệu thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong Nhân dân”. Vì thế, mặt trận “không thể gọi như trước là Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, mà phải đổi ra cái tên khác cho có tính chất dân tộc hơn”, đó là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các đoàn thể trong Việt Minh đều mang tên cứu quốc nhằm đoàn kết mọi người Việt Nam có lòng yêu nước thương nòi.
Tranh vẽ Bác Hồ về nước ngày 28/01/1941
Ngày 22/6/1941, phát xít Ðức tấn công Liên Xô. Tính chất của cuộc chiến tranh thế giới đã thay đổi. Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô bắt đầu và từ cuối 1942, quân đội Liên Xô chuyển sang phản công, liên minh thế giới chống phát xít được thiết lập. Trước tình hình đó, Ðảng Cộng sản Ðông Dương đã xác định rõ: "Cuộc đấu tranh chống phát xít của Liên Xô… là cuộc đấu tranh chung vận mệnh các dân tộc Ðông Dương. Bởi vậy, ở Ðông Dương cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật là một bộ phận của cuộc đấu tranh của… Liên Xô chống lại phát xít thế giới"[4]. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: “Bọn phát xít đã tấn công Liên Xô,… nhưng nhân dân Liên Xô nhất định sẽ chiến thắng. Việt Nam ta cũng đứng ở trong phe dân chủ mới, ủng hộ Liên Xô chống lại phát xít”[5].
Từ ngày 08/12/1941, khi Chiến tranh lan khắp thế giới, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ “Vì giặc Nhật (phát xít Nhật) và giặc Tây mà nước ta biến thành chiến trường”. Người kêu gọi các tầng lớp nhân dân vào các hội cứu quốc do Việt Nam độc lập đồng minh lãnh đạo, “Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”[6]. Thông cáo của Trung ương gửi các cấp bộ đảng về “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng” nêu rõ sách lược hợp tác có nguyên tắc với các lực lượng Đồng minh, trên cơ sở phát huy điểm tương đồng là cùng chống phát xít. Trong trường hợp họ xâm lược Đông Dương hoặc tiếp tay cho Pháp tái chiếm Đông Dương thì Nhân dân Việt Nam sẽ kiên quyết chống lại. Trong khi tranh thủ khả năng hợp tác với Đồng minh, Việt Nam phải có thực lực và không bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Với tinh thần độc lập tự chủ đoàn kết quốc tế, bản Thông cáo nhấn mạnh: “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy. Nhất là đừng có ảo tưởng… Trong cuộc chiến đấu giải phóng cho ta,… phải tìm kiếm bạn đồng minh dầu rằng tạm thời bấp bênh có điều kiện, nhưng công việc của ta trước hết ta phải làm lấy”[7]. Ngày 01/01/1942, Mặt trận Đồng minh chống phát xít được thành lập, ra Tuyên ngôn Liên hợp của các dân tộc, quyết dốc toàn lực lượng vào cuộc chiến tranh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Nguyễn Ái Quốc coi việc quân Đồng minh đánh Nhật ở Đông Dương là một cơ hội để giành độc lập: “Hiện nay tình thế của giặc Nhật vô cùng khốn đốn, do sự phản công của phe Đồng minh. Đây là cơ hội duy nhất, nhân dân cả nước ta từ trên xuống dưới, từ giàu đến nghèo, phải cùng nhau góp sức, đấu tranh tự giải phóng để tìm đường sống”[8]. Trên cơ sở phân tích tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tiên đoán các nước Đồng minh sẽ thắng lợi, chủ nghĩa phát xít sẽ bị tiêu diệt. Việt Nam có thể tranh thủ cơ hội đó để giành độc lập. Người viết: “Ta có thể quyết đoán rằng, Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại. Anh - Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua. Đó là một dịp rất tốt cho dân ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho Tổ quốc ta được độc lập, tự do”[9].
Trên tinh thần đó, Ðảng Cộng sản Ðông Dương coi việc ủng hộ Liên Xô càng trở nên quan trọng. Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương tháng 02/1943 khẳng định: "Ủng hộ Liên Xô kháng chiến và tranh đấu chống phát xít xâm lược là một trong những nhiệm vụ chính của Ðảng ta lúc này"[10]. Để giành thắng lợi, dân tộc Việt Nam không bị động trông chờ sự giải phóng của lực lượng bên ngoài, mà phải dựa vào sức mạnh của chính mình. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ, giành độc lập không phải là điều dễ dàng. “Muốn ăn quả thì phải trồng cây. Muốn tự do độc lập thì phải hy sinh tranh đấu. Vậy ngay từ đây, mỗi cán bộ, mỗi hội viên Việt Minh đều phải tuyên truyền tổ chức; phải làm cho các Hội Cứu quốc ngày càng mạnh… Đoàn kết được chặt chẽ, giải phóng sẽ thành công”[11].
Thường vụ Trung ương Ðảng đề ra 06 biện pháp cụ thể gồm: “Giải thích để nhân dân Ðông Dương nhận rõ việc ủng hộ Liên Xô là một nhiệm vụ không thể thiếu. Thành lập những tổ chức trong dân chúng, nhất là trong giới trí thức và thợ thuyền để ủng hộ Liên Xô. Phổ biến những thắng lợi của Liên Xô để quần chúng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân Xô Viết. Gắn cuộc đấu tranh ủng hộ Liên Xô với các cuộc đấu tranh bênh vực quyền lợi hằng ngày, làm cho quần chúng nhận rõ sự quan hệ giữa các cuộc kháng chiến của Hồng quân với cuộc đấu tranh giành quyền sống của họ. Phải noi gương quân du kích Bắc Sơn, Ðình Cả ủng hộ Liên Xô bằng vũ trang đấu tranh đánh vào dinh lũy phát xít ở Ðông Dương. Vận động binh lính Ðông Dương nếu bị Nhật - Pháp đem đi đánh Liên Xô thì chạy sang phía Hồng quân. Phổ biến khẩu hiệu ‘Ðổi chiến tranh phát xít xâm lược ra cách mạng giải phóng dân tộc’ trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong quân đội”[12].
Như vậy, từ khi thành lập và nhất là trong những năm đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, Ðảng ta luôn đánh giá cao vai trò, vị trí của Liên Xô đối với cách mạng thế giới nói chung và đối với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít nói riêng. Đảng ta và Nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng, bảo vệ và ủng hộ Liên Xô ngay trong chủ trương, đường lối và hành động cách mạng. Ðảng ta và nhân dân Việt Nam coi việc ủng hộ Liên Xô là trách nhiệm của mình và với tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần yêu chuộng hòa bình, Việt Nam đã làm hết sức mình, thậm chí hy sinh cả xương máu để "Ủng hộ Liên bang Xô Viết" trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít nói riêng. Ðồng thời, với việc ủng hộ Liên bang Xô Viết chống chủ nghĩa phát xít, nhân dân Việt Nam trong điều kiện của mình còn trực tiếp tham gia cùng lực lượng đồng minh chống chiến tranh phát xít. Trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô, có hàng chục chiến sĩ Việt Nam tham gia vào lực lượng Hồng quân trực tiếp chiến đấu chống phát xít Ðức trên đất nước Xô Viết.
Lá cờ chiến thắng của Hồng quân Liên Xô đã tung bay trên nóc Nhà Quốc hội Đức năm 1945 (Ảnh tư liệu)
Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và các lực lượng yêu chuộng hòa bình tiến bộ trên toàn thế giới đã tạo nên bức tượng đài anh hùng chói sáng của nhân loại. Ở thời kỳ đó, đã có tới 27 triệu chiến sĩ Hồng quân và người dân Liên Xô ngã xuống để tạo nên hòa bình, tạo nên chiến tích vẻ vang cho nước Nga và cho cả nhân loại. Chủ nghĩa phát xít lúc bấy giờ là “kẻ thù chung” của cả thế giới, đe dọa sự an nguy, thậm chí là sự sống còn của nhân loại. Chính vì vậy, chiến thắng của Liên Xô và các nước yêu chuộng hòa bình còn là động lực quan trọng thúc đẩy các dân tộc bị áp bức đứng lên giành lại độc lập, tự do chính đáng của mình.
Hồng quân Liên Xô mừng chiến thắng phát xít Đức ngày 9/5/1945 (Ảnh tư liệu)
Kỷ niệm Ngày Chiến thắng phát xít 09/5 là dịp để toàn thế giới nhìn lại cuộc chiến tranh thảm khốc nhất trong lịch sử, để tôn vinh sự chiến đấu dũng cảm và hy sinh to lớn của các lực lượng dân chủ và hòa bình, đặc biệt là nhân dân và Hồng quân Liên Xô, đập tan chủ nghĩa phát xít, giành lại hòa bình cho nhân loại. Từ đây, các dân tộc bị áp bức đã vùng lên mạnh mẽ giành độc lập, tự do và quyền tự quyết định vận mệnh của mình, làm lung lay, sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Trong đó, Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một chặng đường lịch sử mới đầy tự hào và vẻ vang. 79 năm đã qua đi kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ II và Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết, nhưng những bài học về cuộc chiến chống phát xít thì vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa thiết thực đối với thế giới đương đại và sẽ luôn được mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới bảo vệ và mãi trường tồn.
Vai trò của Đảng ta trong lãnh đạo Nhân dân trực tiếp đấu tranh chống phát xít Nhật, giành độc lập dân tộc. Để góp sức cùng lực lượng đồng minh chống phát xít và xây dựng lực lượng cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã liên lạc với lực lượng đồng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam trực tiếp đấu tranh chống phát xít Nhật, giành độc lập dân tộc. Từ khi phát xít Nhật đánh vào Lạng Sơn 22/9/1940 đến tháng 01/1941 đã liên tiếp nổ ra ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và Ðô Lương, đó là những tiếng súng đầu tiên mở màn cho cao trào đấu tranh chống phát xít Nhật - Pháp của Nhân dân ta.
Tháng 6/1941, phát xít Ðức tiến công Liên Xô, tính chất của cuộc chiến tranh đã thay đổi. Trước tình hình thế giới và trong nước chuyển biến mau lẹ, sau khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 từ ngày 10-19/5/1941 chỉ rõ: "Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Ðông Dương trong lúc này, vì quyền lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng" và xác định "Trong lúc này, nếu không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"[13]. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Ðông Dương và quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh ở Việt Nam. Tư tưởng chỉ đạo khởi nghĩa từng phần đã được Hội nghị phát triển một cách sạng tạo: "Ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh bại quân thù,… với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn"[14]. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, cách mạng Ðông Dương nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng có nhiều chuyển biến. Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập. Cuối năm 1941, đầu năm 1942, các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh như: Hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... đã được tổ chức tại nhiều địa phương trong cả nước.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, một bộ phận lực lượng vũ trang khởi nghĩa chuyển sang xây dựng thành các đội du kích, rồi thống nhất lại thành đội Cứu quốc quân. Trong những năm 1943-1944, nhiều khu căn cứ cách mạng đã được xây dựng và củng cố ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, nhiều khu an toàn đã được xây dựng ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Giữa năm 1944, cục diện chiến tranh thế giới đã thay đổi. Quân đội Liên Xô đánh đuổi phát xít Ðức ra khỏi lãnh thổ và tiến sang giải phóng các nước Ðông Âu. Ở châu Á - Thái Bình Dương, quân đội Nhật đang vấp phải những thất bại nặng nề. Trước tình thế vô cùng khẩn trương, ngày 7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra "Chỉ thị về việc sửa soạn khởi nghĩa", không khí cách mạng sôi sục trong cả nước. Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Ðội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập đặt dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Sau thắng lợi của Ðội tại Phay Khắt và Nà Ngần, các đội vũ trang tuyên truyền và tự vệ chiến đấu phát triển mạnh, chiến tranh du kích lan rộng ra khắp các tỉnh miền núi phía Bắc.
Ngày 09/3/1945, phát xít Nhật đảo chính Pháp tại Ðông Dương, thực dân Pháp chống cự yếu ớt rồi đầu hàng phát xít Nhật, Đông Dương lúc này hoàn toàn là thuộc địa của phát xít Nhật. Dự đoán trước được tình hình, Thường vụ Trung ương Ðảng đã họp Hội nghị mở rộng và đề ra Chỉ thị lịch sử "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Ðảng ta đã chỉ rõ kẻ thù của cách mạng Việt Nam lúc này là: "Phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Ðông Dương" và thay khẩu hiệu "Ðánh đuổi phát xít Nhật - Pháp" bằng khẩu hiệu "Ðánh đuổi phát xít Nhật", đồng thời quyết định phát động cao trào "kháng Nhật cứu nước" để "sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi có điều kiện". Tiếp đó, Mặt trận Việt Minh ra bản hịch kêu gọi quốc dân đồng bào: "Vận mệnh dân tộc ta đang treo trên sợi tóc. Nhưng cơ hội ngàn năm có một đang lại!... Hãy vùng dậy, giàu nghèo, trai gái, già trẻ, triệu người như một!... Tiến lên! Xông tới! Cứu nước, cứu nhà!".
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, từ cuối tháng 3, cách mạng đã chuyển thành cao trào và những cuộc khởi nghĩa từng phần đã nổ ra ở nhiều địa phương. Ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Ðội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân chia làm nhiều bộ phận về các địa phương lãnh đạo Nhân dân khởi nghĩa. Tại các địa phương khác trong cả nước, khí thế cách mạng đã bừng lên trong mọi tầng lớp nhân dân. Ở các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ, quần chúng nổi dậy phá kho thóc, giải quyết nạn đói. Ở Hà Nội, Mặt trận Việt Minh đẩy mạnh tuyên truyền, rải truyền đơn, treo cờ... tích cực chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Tại các tỉnh Nam Bộ, khí thế cách mạng sục sôi từ thành thị đến nông thôn. Một khí thế sẵn sàng khởi nghĩa đã bao trùm trong cả nước. Ngày 08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và tiếp đó đánh bại 1,0 triệu quân Quan Đông của Nhật trên lãnh thổ Trung Quốc. Ngày 15/8/1945, Chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng, thời cơ "ngàn năm có một” đã đến. Trước đó, nhạy bén trước sự biến chuyển mau lẹ của tình hình, ngày 13/8/1945, Hội nghị Toàn quốc của Ðảng họp quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước và thành lập Ủy ban khởi nghĩa và ra Quân lệnh số 1 kêu gọi toàn dân nổi dậy giành chính quyền. Tiếp đó, ngày 16/8/1945, Ðại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập đã họp tại Tân Trào (Tuyên Quang). Ðại hội đã thông qua Nghị quyết lịch sử quyết định Quốc kỳ, Quốc ca và cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cuộc Cách mạng Tháng Tám mở đầu bằng cuộc tấn công của Ðội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân từ Tân Trào tiến về giải phóng Thái Nguyên chiều 16/8/1945. Ngày 19/8, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội, ngày 23/8 ở Huế, ngày 25/8 ở Sài Gòn… Chỉ trong vòng 15 ngày, Cách mạng Tháng Tám đã thành công trong cả nước. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Ðình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Ðộc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên ngôn Ðộc lập khẳng định: "Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp"[15].
Như vậy, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít Nhật của Nhân dân Việt Nam mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân toàn thế giới chống chủ nghĩa phát xít và là một trong những thắng lợi quan trọng của cuộc đấu tranh này. Ngày nay, Nhân dân Việt Nam khao khát được sống trong hòa bình để xây dựng đất nước. Với tinh thần không quên lịch sử, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, nhân dân Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các dân tộc, quốc gia trên thế giới, cùng hợp tác trong hòa bình để xây dựng đất nước, vì một thế giới hòa bình, hợp tác và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, hiện nay các thế lực phản động đang tiến hành nhiều âm mưu, biện pháp tinh vi nhằm áp đặt tư tưởng chính trị, can thiệp, gây bạo loạn, lật đổ. Thực tế lịch sử từ chủ nghĩa phát xít và cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai cũng như các cuộc chiến tranh mà chủ nghĩa đế quốc đã gây ra cho nhân loại, Nhân dân Việt Nam hiểu rõ và luôn cảnh giác trước sự phục hồi chủ nghĩa phát xít mới, nguy cơ về sự can thiệp và chiến tranh đang tiềm ẩn đối với các dân tộc kiên trì đường lối cách mạng, đường lối ngoại giao “Cây tre Việt Nam” độc lập tự chủ, để gần 38 năm đổi mới và hội nhập “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”./.
-----
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Ðảng Toàn tập, tập 6 (1936-1939), Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, tr.515.
[2], [3], [4], [7], [10], [12], [13], [14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Ðảng Toàn tập, tập 7 (1939-1945), Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, tr.71, 114, 302, 244, 303, 304, 113, 132.
[5] Quang Trung (1967), “Đốm lửa chiến đấu”, trong cuốn Pác Bó quê tôi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.69.
[6] Báo Việt Nam độc lập, số 113, ngày 21/12/1941.
[8], [9], [15] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.248, 250-251, 556-557.
[11] Báo Việt Nam độc lập, số 114, ngày 01/01/1942.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.25.
Lê Sơn