Vai trò của ngành Quân Y trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954

16/04/2024 16:23:18 4601      Chọn cỡ chữ A a  

Ngày 16/4/1946, Quân y Cục trực thuộc Bộ Quốc phòng được thành lập do Bác sĩ Vũ Văn Cẩn làm Cục trưởng. Từ đó, ngày 16/4/1946 được xác định là ngày thành lập Cục Quân y và là Ngày truyền thống của ngành Quân y Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Trải qua 78 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam, Tổng cục Hậu cần và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của Bộ Y tế, ngành Quân y đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt, hoàn thành tốt nhiệm vụ cứu chữa thương binh, bệnh binh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bộ đội và Nhân dân.

Cục trưởng Cục Quân y Vũ Văn Cẩn (đứng đầu) giới thiệu với Bác Hồ về những sáng kiến của ngành quân y tại triển lãm quân y (Ảnh tư liệu)

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, nhưng gặp muôn vàn khó khăn, thử thách “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, đặt nước ta trước tình thế hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”, trong đó, có lĩnh vực y tế, tình trạng thiếu vũ khí, đạn dược, trang bị, thiếu lương thực, thuốc men, nhưng nghiêm trọng hơn là thiếu cán bộ, thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm về mọi mặt, cả nước chỉ có hơn 100 bác sĩ, có tỉnh chỉ có 01 y sĩ… Trong bối cảnh đó, ngày 25/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 34/SL quy định tổ chức của Bộ Quốc phòng, trong đó, có Quân y Cục và Sắc lệnh số 35/SL cử người giữ các chức vụ trong Bộ Quốc phòng, Bác sĩ Vũ Văn Cẩn được cử làm Quân y Cục trưởng. Căn cứ hai sắc lệnh trên, ngày 16/4/1946, Bộ Quốc phòng ra Nghị định số 12/NĐ quy định nhiệm vụ và tổ chức Quân y Cục. Từ đó, ngày 16/4 trở thành Ngày truyền thống của ngành Quân y và Cục Quân y. Ngày 22/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 71/SL về việc Quân đội của nước Việt Nam là một Quân đội quốc gia và đề ra quy tắc Quân đội quốc gia Việt Nam, trong đó, xác định tổ chức biên chế các đơn vị, các cơ quan và xác định ngành Quân y là một ngành độc lập từ trên xuống đơn vị cơ sở gồm: Hệ thống tổ chức chỉ huy ngành từ Quân y Cục đến tuyến đơn vị bước đầu được xây dựng và củng cố; Hệ thống lý luận về tổ chức bảo đảm quân y được hình thành; Hệ thống điều trị được xây dựng, các trung đoàn có bệnh xá, các khu có quân y viện. Tại Hội nghị Quân y VI (ngày 09/3/1948) đề ra khẩu hiệu “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Đến cuối tháng 6 và đầu tháng 7/1949, Cục Quân y triệu tập Hội nghị Y tá đại đội, đề cập đến một số vấn đề cơ bản như: “Người quân y phải nêu cao tinh thần vì bộ đội, vì người binh nhì, vì Nhân dân”.

Với tinh thần hướng ra tuyến trước, cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ngành Quân y đã làm việc quên mình, dũng cảm hy sinh, bám sát bộ đội, bám sát chiến trường, quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Người thầy thuốc giỏi, đồng thời phải là như người mẹ hiền”, đồng cam cộng khổ với chiến sĩ, luôn có mặt ở những nơi nóng bỏng nhất của các chiến trường, cấp cứu thương binh ngay tại trận địa, góp phần quan trọng hạ thấp tỉ lệ tử vong hỏa tuyến, nâng cao chất lượng cứu chữa, điều trị thương binh, bệnh binh. Nhiều cán bộ, chiến sĩ quân y đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Hệ thống điều trị trong toàn quân đã tổ chức tốt công tác thu dung điều trị, chăm sóc, cứu chữa kịp thời một số lượng lớn thương binh, bệnh binh, góp phần quan trọng trả nhanh quân số về đơn vị chiến đấu, giải quyết tốt hậu quả di chứng vết thương chiến tranh, giảm tỉ lệ tàn phế, phục hồi khả năng lao động cho cán bộ, chiến sĩ với chất lượng ngày càng cao.

Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) là ngành Quân y vừa mới hình thành, cần phải được xây dựng mọi mặt cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ, nhưng phải đương đầu với cuộc chiến tranh tàn khốc do thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Và trong bất kỳ một cuộc tranh tranh hay một chiến dịch quân sự nào, lực lượng quân y luôn là lực lượng vô cùng quan trọng. Bởi ngay sau khi được thành lập, từ rất ít cán bộ, nhân viên chuyên môn, ngành Quân y đã nhanh chóng phát triển lực lượng, phương tiện, trang bị... tổ chức bảo đảm cho các chiến dịch có quy mô ngày càng lớn mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Cán bộ, chiến sĩ ngành Quân y đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức, vượt lên chính mình, từng bước trưởng thành, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm quân y, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Ngày 18/4/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư động viên anh chị em cán bộ, nhân viên quân y, dân công, hộ lý, cấp dưỡng phục vụ thương binh: "... Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử quy mô to lớn hơn các chiến dịch trước. Do đó, công tác thương binh cũng đòi hỏi một sự cố gắng mới về tổ chức cũng như về tinh thần phục vụ... Từ nay đến lúc tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ, chúng ta còn phải trải qua nhiều khó khăn gian khổ. Các đồng chí cần tiếp tục nâng cao tinh thần dũng cảm, khắc phục mọi khó khăn gian khổ hoàn thành nhiệm vụ, phục vụ cứu chữa anh em thương binh cho chu đáo".

 

Các chiến sĩ quân y khám bệnh và trao đổi kinh nghiệm tại Chiến trường Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)

Trước khi trận đánh Điện Biên Phủ bắt đầu, ta đã bố trí được hơn 650 giường bệnh tại tất cả các vị trí. Trong đợt 1 của chiến dịch, nhờ sự chủ động trong đối phó với địch, quân đội ta đã giảm thiểu được số lượng thương vong và có thể nhanh chóng cấp cứu, chữa trị cho các chiến sĩ bị thương nặng, từ đó, họ đã được xuất viện trở lại đơn vị chiến đấu. Tuy nhiên, đến đợt 2 của chiến dịch, khi tình hình chiến sự trở nên ngày càng ác liệt, số lượng thương binh đã gia tăng đáng kể “nhiều khi đông thương binh phải làm việc liên tục hàng chục ngày đêm không ngủ, không tắm giặt, đến giờ thay nhau ăn cơm, thức ăn cả tuần hầu hết là thịt hộp…" và có những thời điểm không thể kiểm soát được tình hình. Các chiến sĩ quân y đã phải làm việc liên tục trong điều kiện hết sức khó khăn, vất vả, thiếu máy móc, thiết bị, dụng cụ y tế, thuốc men. Có những lúc quá đông thương binh đến độ hết băng, bông, thuốc giảm đau. Không chỉ chăm sóc, cấp cứu cho thương binh mà lực lượng quân y còn đảm nhiệm rất nhiều nhiệm vụ khác.

 

Nữ y tá tận tình bón từng thìa cháo cho thương binh ngoài hỏa tuyến Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)

 

Với sự nỗ lực của toàn quân, toàn dân Việt Nam, chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của QĐND Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã trở thành bài học lịch sử vô giá cho ngành Quân y về tổ chức chỉ huy quân y, về cứu chữa, vận chuyển thương binh, bệnh binh trong chiến dịch, chiến đấu.

Sau chiến dịch Điên Biên Phủ thắng lợi, một công việc mà quân y phải đảm nhiệm nhưng không lường trước được, đó là giải quyết chăm sóc các thương, bệnh binh địch. Các chiến sĩ quân y đã ở lại tiếp tục cứu chữa gần 1.500 thương bệnh binh của quân đội Pháp. Đây là một trong những chính sách khoan hồng của QĐND Việt Nam. Số tù binh Pháp bị thương nằm trong các hầm hào đã được các chiến sĩ quân y chăm sóc, cứu chữa cho đến khi cấp trên có chủ trương trao trả tù binh cho quân đội Pháp. Lực lượng quân y vừa xông pha nơi trận địa đầy bom đạn và sự chết chóc để cứu chữa, chăm sóc, điều trị cho thương, bệnh binh vừa làm công tác tư tưởng, an ủi, động viên tinh thần cho bộ đội. Mặc dù, không trực tiếp cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận nhưng lực lượng quân y đã đã phải làm việc liên tục trong điều kiện hết sức khó khăn, vất vả, thiếu máy móc, thiết bị, dụng cụ y tế, thuốc men, góp phần to lớn vào chiến công vang dội của Chiến dịch Điện Biên Phủ. 

Trong giai đoạn 1945-1954, lực lượng y tế kháng chiến ở Nam Bộ được hình thành và phát triển từ yêu cầu phục vụ lực lượng kháng chiến. Về mặt tổ chức, các tổ chức quân y được xây dựng trong các đơn vị quân đội và có sự phát triển gắn liền với sự phát triển của quân đội. Các tổ chức dân y được hình thành sau quân y, hoạt động song song với quân y và có sự thống nhất về chỉ đạo với quân y. Hệ thống quân y, dân y nhiều lần thay đổi về cơ cấu tổ chức để phù hợp với tình hình chiến trường Nam Bộ. Về sự kết hợp quân - dân y, quân y và dân y gắn bó mật thiết trong hoạt động bảo đảm y tế, cứu thương phục vụ đơn vị chủ lực, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Qua quá trình hoạt động, mối liên hệ không tách rời của quân y và dân y càng thể hiện rõ: nhân tố hình thành lực lượng quân y trong kháng chiến chống Pháp xuất phát từ những người dân tham gia kháng chiến ở Nam Bộ; trong điều kiện vừa chiến đấu vừa bảo vệ dân trong vùng giải phóng, nguồn tiếp tế thuốc men và vắc xin chủ yếu dựa vào nguồn lực y tế của dân y. Về hoạt động, những nỗ lực và kết quả đạt được của quân y và dân y Nam Bộ, đặc biệt, trong công tác sản xuất vắc xinn phòng bệnh và vận dụng phương pháp điều trị theo Đông y đã đặt nền tảng cho một số vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn mà ý nghĩa khoa học của nó vẫn còn giá trị trong bối cảnh hiện nay.

Tự hào truyền thống anh hùng, tiếp nối trang sử vẻ vang 78 năm qua (16/4/1946-16/4/2024), cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ngành Quân y ra sức phấn đấu rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức, tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn; đổi mới phương pháp, tác phong công tác, quyết tâm xây dựng ngành Quân y “mạnh về tổ chức và khả năng cơ động, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững về chính trị, tư tưởng và y đức”, góp phần xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ ngĩa.

                                                                                                                                                                                                                     Lê Sơn

Bản in
TỪ KHÓA
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

    Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

  • Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

    Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

  • Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

  • Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

    Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

  • Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

  • Hôm nay:   7267
  • Tháng hiện tại:   1005065
  • Tổng lượt truy cập:   9860191