Vận dụng những tư tưởng, lý luận khoa học về quân đội của Ph.Ăngghen góp phần “tinh gọn” lực lượng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam anh hùng trong kỷ nguyên mới

27/11/2024 15:50:40 1927      Chọn cỡ chữ A a  

Friedrich Engels (Ph.Ăngghensinh ngày 28/11/1820 tại tỉnh Rhein, Vương quốc Phổ (Cộng hòa Liên bang Đức hiện nay) là nhà lý luận chính trị lỗi lạc, đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận cách mạng, trong đó, những tư tưởng, lý luận khoa học về quân đội góp phần tạo ra cuộc cách mạng sâu sắc nhất trong lĩnh vực lý luận khoa học quân sự. Ph.Ăngghen bằng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và thực tế hoạt động của mình đã kế thừa và xây dựng lý luận về tư tưởng quân sự một cách khoa học, cách mạng, phản ánh thực tiễn của thời đại sâu sắc trên lập trường của giai cấp vô sản, đặt nền móng cho sự ra đời của Học thuyết Mác - Lênin về lĩnh vực quân đội.

Friedrich Engels (Ph.Ăngghen, 1820-1895) (Ảnh tư liệu)

Quá trình hoạt động cách mạng của Ph.Ăngghen hình thành những tư tưởng, lý luận khoa học về quân đội. Tháng 6/1838, Ph.Ăngghen đến làm việc tại Văn phòng thương mại ở thành phố cảng Ba-rơ-men, thành phố cảng lớn buôn bán với nhiều nơi trên thế giới. Tại đây, Ph.Ăngghen được mở rộng tầm hiểu biết về tác động của cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã chín muồi ở Đức lúc bấy giờ và chính điều đó đã thúc đẩy việc hình thành các quan điểm dân chủ - cách mạng ở Ph.Ăngghen. Cuối năm 1839, Ph.Ăngghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hê-ghen, chính thức không trở thành thương gia như ý muốn của bố mà hiến thân cho một sự nghiệp khác cao cả hơn. Tháng 9/1841, Ph.Ăngghen đến Béc-lin và gia nhập binh đoàn pháo binh. Tại đây được huấn luyện quân sự, đó là điều rất cần thiết, song Ph.Ăngghen vẫn lui tới trường Đại học Tổng hợp Béc-lin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Mùa xuân 1842, Ph.Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm 1842, Ph.Ăngghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 08/10/1842, Ph.Ăngghen mãn hạn phục vụ trong quân đội và từ Béc-lin trở về Ba-rơ-men. Sau đó, Ph.Ăngghen đã làm Tổng biên tập tờ báo Rheinische Zeitung ở Koln nước Anh trong 02 năm. Trong thời gian này, Ph.Ăngghen đã viết cuốn sách “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” và nhiều bài báo khác để phân tích rõ sự phân chia xã hội thành 03 giai cấp cơ bản (giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản) và đi đến kết luận “đằng sau cuộc đấu tranh của các đảng phái ẩn giấu cuộc đấu tranh của các giai cấp”. Những năm tháng ở Anh, Ph.Ăngghen có ý nghĩa quyết định trong việc dứt khoát từ bỏ những quan điểm duy tâm để trở thành nhà duy vật biện chứng.

Năm 1848, Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản đã ủy nhiệm C.Mác và Ph.Ăngghen cùng viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản thế giới, là ngọn đuốc soi đường cho giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh phá bỏ xiềng xích và mọi sự áp bức, bất công trong xã hội tư bản. Tháng 01/1849, Ph.Ăngghen trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5/1849), Ph.Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph.Ăngghen đến Elberfeld và được bổ sung vào Ban Quân sự, trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng công sự, trông coi tất cả các chiến lũy trong thành phố, đồng thời, kiêm nhiệm phụ trách pháo binh. Sau cuộc khởi nghĩa ở Tây - Nam nước Đức, Ph.Ăngghen đưa ra một kế hoạch đã suy nghĩ kỹ để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng và dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này, Ph.Ăngghen tham gia trực tiếp 04 trận đánh lớn, trong đó, có trận Rastatt, một trận có ý nghĩa đặc biệt to lớn; sau này, đã viết “Luận văn quân sự” nổi tiếng thể hiện khả năng thiên tài quân sự của Ông. Tháng 11/1849, Ph.Ăngghen đến Luân Đôn (Anh) và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản mà C.Mác đã cải tổ sau khi đến đây. Ph.Ăngghen sống ở Luân Đôn một năm, trong thời gian này, Ph.Ăngghen đã viết hai tác phẩm “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” và “Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức”. Tháng 11/1850, Ph.Ăngghen buộc phải chuyển đến Manchextơ (Anh) và lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này đã tạo điều kiện cho Ph.Ăngghen có thể giúp đỡ về vật chất cho C.Mác hoạt động cách mạng. Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, quân sự, chính sách quốc tế. Năm 1864, Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen tham gia lãnh đạo Quốc tế thứ nhất, lãnh đạo công nhân đấu tranh chuyển từ tự phát sang tự giác, mang ý thức chính trị rõ rệt. Tư tưởng chủ đạo Quốc tế thứ nhất là sử dụng vũ trang để chống trả giai cấp bóc lột, mang lại quyền lợi chính trị, kinh tế cho người lao động. Tháng 9/1870, Ph.Ăngghen đến Luân Đôn và được đưa vào Tổng Hội đồng của Quốc tế Cộng sản I. Ph.Ăngghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái Pruđông, Latxan, Bacunin. Năm 1871, Ph.Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Pari. Trong thời gian này, Ph.Ăngghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn “Chống Đuy rinh” (1878), góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Mác.

Sau khi C.Mác qua đời (1883), Ph.Ăngghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C.Mác chưa kịp hoàn thành. Ph.Ăngghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời, như: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phoi ơ bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886), Biện chứng tự nhiên,Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894); đồng thời, tiếp tục làm cố vấn và là người lãnh đạo của những người xã hội chủ nghĩa châu Âu. Ph.Ăngghen đã tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ hội trong các đảng công nhân, vạch trần và phê phán kịch liệt những khuyết điểm của các đảng đó, giúp các đảng đó có một phương hướng cách mạng trong công tác. Tác phẩm “Phê phán dự thảo Cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ năm 1891”, viết năm 1891, là một văn kiện quan trọng của Ph.Ăngghen đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. Ph.Ăngghen lãnh đạo hai Đại hội đầu của Quốc tế thứ hai (ra đời từ năm 1889). Ph.Ăngghen đã liên tục đấu tranh với chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa tư bản và nhấn mạnh chỉ có xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa mới thủ tiêu tận gốc nạn người bóc lột người, mới xóa bỏ được nguồn gốc chiến tranh, xóa bỏ được chủ nghĩa quân phiệt hiếu chiến. Giai cấp vô sản phải sử dụng tất cả các phương tiện tuyên truyền và cổ động đòi thi hành bảo hộ lao động, chống ngân sách chiến tranh, giảm chi phí cho quân đội thường trực... Ph.Ăngghen nhắc lại luận điểm có tính nguyên tắc của C.Mác: Chỉ có hoạt động chính trị mới là phương tiện để đi đến giải phóng giai cấp vô sản. Giai cấp công nhân các nước phải vận dụng chủ nghĩa Mác, lựa chọn hình thức đấu tranh chính trị và kinh tế - xã hội để tập hợp lực lượng và phát triển phong trào của mình. Nhưng khi vận dụng, cần coi “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”[1]. Chính trong thực tiễn hoạt động cách mạng và quá trình lãnh đạo Quốc tế thứ nhất và Quốc tế thứ hai đã hình thành nên tư tưởng của Ph.Ăngghen về lĩnh vực quân sự.

Những cống hiến vĩ đại của Ph.Ăngghen về nội dung trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận khoa học quân đội khá phong phú về nguồn gốc ra đời, bản chất, quy luật hình thành phát triển, kiểu loại và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Mỗi nội dung đều được Ph.Ăngghen tiếp cận và luận giải một cách khoa học.

Ph.Ăngghen đã tiếp cận, luận giải khoa học về nguồn gốc ra đời của quân đội, trong đó, chỉ rõ nguồn gốc ra đời của quân đội với quan niệm: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức, do Nhà nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến tranh phòng ngự”[2]. Xuất phát từ các quan hệ kinh tế - xã hội hiện thực, Ph.Ăngghen cho rằng, quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời ở một giai đoạn nhất định của xã hội, gắn với sự ra đời của giai cấp, Nhà nước, là tổ chức đặc biệt của Nhà nước. Từ phân tích mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng và các Nhà nước, Ph.Ăngghen chỉ rõ, chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp trong xã hội là nguồn gốc khách quan làm xuất hiện và tồn tại Nhà nước; để bảo vệ địa vị, lợi ích của mình và đàn áp quần chúng nhân dân lao động, giai cấp thống trị tổ chức ra quân đội. Theo đó, nguồn gốc sâu xa sự ra đời và tồn tại quân đội gắn với sự ra đời và tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; nguồn gốc trực tiếp xuất hiện và tồn tại quân đội là do xã hội có sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp. Ph.Ăngghen đã chứng minh, trong xã hội cộng sản nguyên thủy “không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tòa, không có nhà tù, không có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy”[3]. Khi lực lượng sản xuất phát triển làm xuất hiện của dư thừa trong xã hội. Những người có chức quyền trong thị tộc, bộ lạc như tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự lợi dụng quyền lực để thâu tóm hầu hết tư liệu sản xuất và của dư tương đối do xã hội tạo ra. Từ đây xã hội có sự phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo, các giai cấp có địa vị kinh tế - xã hội đối lập nhau. Sự xuất hiện giới quý tộc, các thủ lĩnh bộ lạc, tù trưởng thành một tầng lớp xã hội đặc biệt và sự hình thành giai cấp thống trị bóc lột đã làm xuất hiện mầm mống quân đội. Cùng với sự phân chia xã hội thành giai cấp, sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản ngày càng trở nên sâu sắc, đội quân thường trực trong lĩnh vực quân sự được tăng cường, cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ hơn. Khi chế độ chiếm hữu nô lệ và Nhà nước chủ nô xuất hiện, tổ chức quân đội chính thức ra đời trong lịch sử.

Theo Ph.Ăngghen, lĩnh vực quân sự bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp và Nhà nước tổ chức ra nó và: Quân đội đã trở thành mục đích chủ yếu của Nhà nước, trở thành một mục đích tự nó. Bản chất giai cấp của quân đội được thể hiện trong quá trình tổ chức, xây dựng và thực hiện nhiệm vụ của nó. Giai cấp thống trị và Nhà nước quyết định bản chất quân đội thông qua việc truyền bá hệ tư tưởng bằng hệ thống giáo dục cho binh lính, xác lập cơ cấu tổ chức, phương hướng hoạt động phù hợp với lợi ích của giai cấp đó và kiểm soát mọi hoạt động của quân đội. Bản chất giai cấp của quân đội còn biểu hiện trực tiếp ở chức năng và nhiệm vụ của nó. Ph.Ăngghen cho rằng, bất cứ quân đội nào cũng là cơ sở bạo lực chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Ph.Ăngghen khẳng định, quân đội là công cụ bạo lực để Nhà nước thống trị bóc lột, đàn áp nhân dân lao động, răn đe, buộc quần chúng nhân dân lao động phải phục tùng giai cấp thống trị và nhà nước của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong nước; tiến hành chiến tranh bảo vệ lãnh thổ của nhà nước khỏi sự xâm lược từ bên ngoài, hoặc tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng lãnh thổ, phục vụ lợi ích ích kỷ của giai cấp thống trị, áp đặt ách nô dịch đối với dân tộc khác.

Ph.Ăngghen đã luận giải và chỉ ra sự vận động, phát triển của quân đội phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội. Ph.Ăngghen phân tích, sự tan rã rộng khắp của chế độ phong kiến và sự phát triển của các thành thị đã thúc đẩy sự thay đổi thành phần của quân đội; khi quân đội phong kiến không còn tồn tại nữa, những quân đội mới được thành lập gồm đông đảo lính đánh thuê mà sự tan rã của chế độ phong kiến đem lại cho họ quyền tự do phục vụ kẻ nào trả tiền cho họ. Như thế làm nảy sinh ra một lực lượng giống quân đội thường trực; trong đó, lính đánh thuê gồm những người thuộc đủ các dân tộc, khi duy trì kỷ luật trong họ và họ không được trả lương kịp thời dễ gây ra những vụ rối loạn rất lớn.

Trong tác phẩm “Quân đội”, Ph.Ăngghen cho rằng, cơ sở để phân biệt một kiểu quân đội là tính quy định lịch sử - cụ thể của xã hội, tính chất của các quan hệ giai cấp và điều kiện kinh tế - xã hội của sự phát triển quân đội đó. Kiểu quân đội được quy định bởi bản chất giai cấp của nó và biểu hiện ở nội dung duy trì đường lối chính trị của một giai cấp nhất định. Theo Ph.Ăngghen, việc phân loại quân đội căn cứ vào đặc trưng chính trị, xã hội chủ yếu của các quân đội để chỉ ra nội dung hoạt động cơ bản của quân đội gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ph.Ăngghen chỉ rõ, kiểu quân đội đầu tiên trong lịch sử là quân đội của Nhà nước chiếm hữu nô lệ, tuy nhiên, chúng có hình thức tổ chức và phương thức xây dựng không giống nhau. Dù kiểu quân đội trên có khác nhau, song đặc điểm chủ yếu của các kiểu quân đội ấy là đều phục vụ cho giai cấp chủ nô, là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp ấy, là phương tiện để bảo vệ và củng cố chế độ của giai cấp tổ chức, sử dụng nó.

Các nước khác nhau và trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, quân sự có sự khác nhau về cơ cấu tổ chức, quân số, nguyên tắc tuyển mộ binh lính. Song bản chất của quân đội vẫn là công cụ, phương tiện để Nhà nước áp bức, bóc lột trong xã hội có giai cấp đối kháng. Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, làm xuất hiện quân đội tư sản, là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước tư sản để duy trì các quan hệ bóc lột và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp tư sản. Quân đội tư sản đàn áp các phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động, xâm chiếm lãnh thổ ngoài biên giới, củng cố chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Trong lĩnh vực quân sự mà quân đội tư sản nòng cốt, còn là công cụ chủ yếu để thực hiện chính sách của chủ nghĩa đế quốc.

Ph.Ăngghen đã đề cập đến những yếu tố cơ bản trong sức mạnh chiến đấu của lĩnh vực quân sự. Ông đã luận giải yếu tố quân số, cơ cấu tổ chức, biên chế của quân đội khi chỉ rõ: “Tất cả những người được gọi nhập ngũ biên chế thành bộ binh trang bị nặng (quân hô-plít) để tạo thành đội chấp kích, hoặc đội hình hàng ngang có chiều sâu… bộ binh ấy ban đầu tạo thành toàn bộ lực lượng vũ trang,...”[4]. Ph.Ăngghen phân tích cơ cấu tổ chức của quân đội gồm nhiều cơ quan và được thực hiện theo những cách khác nhau ở mỗi nước. Ph.Ăngghen cho rằng: “Tổ chức của bộ chiến tranh Pháp, gồm có 07 cơ quan quản lý hoặc cục: Cục nhân sự, cục pháo binh, cục xây dựng công trình - cứ điểm, cục quân nhu, cục phụ trách các vấn đề An-giê-ri, quân vụ (phòng chiến sự, phòng đồ bản quân sự,... và các phòng, ban của bộ tham mưu), cục tài chính quân sự”[5].

Về sự vận động, phát triển sức mạnh chiến đấu của quân đội, Ph.Ăngghen đã luận giải sự cần thiết của việc lấy vũ trang nhân dân thay thế quân đội thường trực. Từ thực tiễn Công xã Pa-ri, các ông nhận thấy bài học có giá trị cần tiếp tục nghiên cứu và phát huy là giai cấp công nhân cần đập tan quân đội thường trực của giai cấp tư sản và thay thế bằng hình thức tổ chức quân sự mới của giai cấp vô sản. Theo Ph.Ăngghen, sức mạnh chiến đấu của quân đội và hạm đội phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của nhà nước sinh ra nó và được coi là điều kiện tiên quyết. Ph.Ăngghen luận giải: “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu của quân đội, và do đó thắng lợi hay thất bại rõ ràng là phụ thuộc vào các điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế”[6]. Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược phụ thuộc trước hết vào trình độ sản xuất đạt được trong một thời điểm nhất định. Sức mạnh chiến đấu của quân đội còn phụ thuộc vào chất lượng nhân lực và vũ khí, kỹ thuật, các đội bộ binh vũ trang khác nhau. Ph.Ăngghen đã luận giải rất biện chứng về sự chuyển hóa lượng - chất trong sức mạnh chiến đấu của quân đội gắn với sự hoàn thiện trình độ tổ chức quân sự trong mối tương quan với các tiền đề kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội.

Về sức mạnh chiến đấu của quân đội nhà nước vô sản, Ph.Ăngghen cho rằng, kinh tế trực tiếp cung cấp trang bị, phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất cho quân đội và tác động tích cực đến xây dựng, phát triển các yếu tố khác, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội Nhà nước vô sản. Ph.Ăngghen chỉ ra vai trò và những vấn đề cơ bản về kỹ thuật quân sự, nghệ thuật tác chiến của quân đội trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc của Nhà nước vô sản. Về mối quan hệ giữa con người và vũ khí, Ph.Ăngghen chỉ rõ, con người giữ vai trò quyết định, vũ khí, trang bị dù hiện đại, tối tân đến đâu cũng chỉ giữ vai trò quan trọng. Ông đánh giá cao vai trò của đội ngũ tướng lĩnh, sĩ quan trong xây dựng quân đội và tăng cường sức mạnh chiến đấu của quân đội nhà nước vô sản. Ph.Ăngghen chỉ ra sự cần thiết phải đẩy mạnh trí tuệ hóa lực lượng vũ trang cách mạng để hiện đại hóa quân đội; chú trọng sử dụng những kỹ sư dân sự, nhằm tăng tính năng động, hiệu quả hoạt động của đội ngũ sĩ quan.

Tóm lại, tư tưởng của Ph.Ăngghen về quân đội là một cống hiến rất lớn vào kho tàng lý luận quân sự, thể hiện sâu sắc tinh thần biện chứng duy vật, tạo ra bước ngoặt cách mạng hoàn toàn mới về chất trong lịch sử tư tưởng nhân loại về quân đội. Tư tưởng của các ông về quân đội đã góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng trên lập trường mácxít, chính thức đặt nền móng và xác lập sự ra đời của học thuyết Mác về quân đội. Đây là cơ sở khoa học “giáng đòn chí mạng” vào lý luận quân sự phản khoa học, phản động, duy tâm, siêu hình về quân đội; bác bỏ quan điểm cố tình lẩn tránh nguồn gốc kinh tế, nguồn gốc giai cấp của quân đội, phủ nhận tính lịch sử, cố chứng minh cho sự tồn tại vĩnh viễn của quân đội, coi sự ra đời của quân đội là một sản phẩm tất yếu, tự nhiên thuần túy trong lịch sử loài người để bảo đảm các hoạt động “bình thường” của xã hội.

Tư tưởng của Ph.Ăngghen về quân đội cùng với nội dung V.I.Lênin bảo vệ và phát triển lý luận về quân đội trong thời đại đế quốc chủ nghĩa trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học soi đường cho giai cấp công nhân và chính đảng cách mạng nhận thức đúng đắn nguồn gốc, bản chất của các kiểu quân đội, nhất là quân đội của giai cấp tư sản, và xác lập lý luận khoa học xây dựng quân đội của giai cấp vô sản; đồng thời, giúp nhà nước vô sản xây dựng chính sách tổ chức, giáo dục, rèn luyện, sử dụng quân đội đúng chức năng, nhiệm vụ, thực sự là công cụ bạo lực để đấu tranh chống lại sự thống trị, xâm lược, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản phản động, bảo vệ địa vị, lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và nhà nước vô sản. Những tư tưởng của Ph.Ăngghen về quân đội là cơ sở khoa học để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu, bổ sung, phát triển đường lối, quan điểm về xây dựng quân đội, củng cố nền quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Tổng Bí thư Tô Lâm nói chuyện với cán bộ chủ chốt của Tổng cục II, Bộ Quốc phòng

Để vận dụng tư tưởng, lý luận khoa học của Ph.Ăngghen về xây dựng “Quân đội Việt Nam anh hùng”, thực hiện “tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”, phát biểu tại buổi làm việc với Tổng cục II, Bộ Quốc phòng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục biến động phức tạp, khó lường; tác động trực diện, nhanh chóng đến nước ta, tích cực và tiêu cực đan xen. Điều này đặt ra trọng trách ngày càng nặng nề hơn, đòi hỏi phải nỗ lực, quyết liệt hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Trong mọi tình huống, phải luôn khẳng định là lực lượng tuyệt đối trung thành, đặc biệt tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Đồng thời, thường xuyên rà soát tổ chức bộ máy, hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo hướng “tinh gọn, hiệu quả, đúng chức năng”; bảo đảm tính phù hợp ngày càng cao giữa số lượng và chất lượng, giữa các thành phần lực lượng, giữa chức năng nhiệm vụ với quy mô, chất lượng tổ chức và khả năng thực hiện nhiệm vụ, giữa lực lượng thực hiện nhiệm vụ hiện tại với lực lượng, kế cận, kế tiếp. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, linh hoạt, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của các phương thức, lực lượng; luôn đặt trọng tâm xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng, lấy đó làm nền tảng trong xây dựng lực lượng cách mạng; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhãn quan và tư duy nghiệp vụ sắc sảo, trình độ, kiến thức chuyên môn tương xứng với chức trách, nhiệm vụ; có số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần “07 dám”, luôn “kiên quyết, kiên trì, kiên định”, phát huy bản lĩnh “Bộ đội Cụ Hồ”, nhạy bén trong phát hiện những yếu tố mới, tham mưu hoạch định đường lối, chính sách, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài.

Trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo những tư tưởng của Ph.Ăngghen về lĩnh vực quân đội, kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22/12/1944-22/12/2024), 35 năm Ngày hội quốc phòng toàn dân (22/12/1989-22/12/2024) là dịp để QĐND Việt Nam tự hào và tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của QĐND Việt Nam anh hùng, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ: “Người làm tướng phải Trí - Dũng - Nhân - Tín - Liêm - Trung” để luôn xứng đáng là người chỉ huy tài năng, mẫu mực, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã tin cậy, giao phó.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Chí Hiếu (2016), “Tư tưởng của Ph.Ăngghen về vai trò của lý luận đối với chính đảng vô sản và ý nghĩa trong công tác phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Ph.Ăngghen: “Giá trị tư tưởng Ph.Ăngghen trong thời đại ngày nay”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.278.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.11.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.147.

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.17.

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.68.

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.241.

Lê Sơn

Bản in
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

    Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” bắt đầu diễn ra ngày 13/3/1954 - “Quyết định lịch sử” thay đổi vận mệnh dân tộc

  • Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

    Thượng úy Vi Hữu Toàn với mô hình “Khéo tuyên truyền, khéo vận động, khéo tổ chức”

  • Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

    Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

  • Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

    Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước

  • Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Kỷ niệm 69 năm Thầy thuốc Việt Nam (27/02) - Phát huy truyền thống vẻ vang “Lương y như từ mẫu” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

  • Hôm nay:   43970
  • Tháng hiện tại:   385656
  • Tổng lượt truy cập:   8018110