Cách đây 77 năm, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Lời kêu gọi cứu nước của Bác như lời hịch non sông, thúc giục mọi người dân ra trận. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đánh dấu một bước chuyển lớn của cách mạng Việt Nam, Nhân dân Việt Nam muôn người như một bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp với đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” thắng lợi...
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã nhất tề đứng lên giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đưa Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh đất nước, vận vận mệnh chính mình, đưa dân tộc Việt Nam từ nước thuộc địa nửa phong kiến thành nước thành nước độc lập, tự do,… Tuy nhiên, sau Cách mạng tháng Tám, nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách như: Chính quyền non trẻ, giặc đói, giặc dốt, sự trống rỗng về tài chính, thù trong và giặc ngoài,… Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, núp dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân phát xít Nhật, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào, ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta và chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, một triệu quân Anh kéo vào giải giáp quân phát xít Nhật, đã giúp sức cho thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn ngày 23/9/1945, thực hiện dã tâm xâm lược nước ta lần thứ hai. Các tổ chức phản động ở cả hai miền Nam Bắc và 6 vận quân phát xít nhật trong lúc chờ giải giáp cũng ra sức quấy nhiễu, cướp của, giết người, chống phá sự nghiệp cách mạng… Nạn đói ở miền Bắc do sự cấu kết giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp - “một cổ hai tròng” gây ra năm 1944-1945 không chỉ cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người dân Việt Nam mà còn để lại hậu quả vô cùng nặng nề, khó khắc phục; nạn đói cũ chưa khắc phục được, nạn đói mới lại tiếp tục diễn ra; ruộng đất bị bỏ hoang, làng mạc xơ xác tiêu điều; nhà máy, xí nghiệp bị tàn phá, sản xuất đình trệ; ngân khố quốc gia cạn kiệt, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống Nhân dân vô cùng khó khăn; cả nước có đến hơn 90% dân số mù chữ cùng với đó là các tệ nạn xã hội và hủ tục do chế độ cũ để lại chưa được dẹp bỏ... những khó khăn đó, đẩy nước ta vào tình thế cách mạng hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tính thế đó, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra các giải pháp vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài để khắc phục những khó khăn như: Kêu gọi tinh thần tương thân tương ái, chia ruộng đất cho Nhân dân, giảm tô; phát động phong trào “bình dân học vụ”, “tuần lễ vàng”, “quỹ độc lập”,… nhằm đấu tranh bảo vệ chính quyền và nền tự do, độc lập mới giành được. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khôn khéo tìm mọi cách “hòa để tiến”, nhân nhượng cho thực dân Pháp để cứu vãn hòa bình. Người đã đàm phán, ký với thực dân Pháp Hiệp định Sơ bộ (06/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) nhằm tranh thủ thời gian hòa hoãn để xây dựng, củng cố và chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đuổi quân Tưởng Giới Thạch ra khỏi miền Bắc nước ta,...
Thiện chí của Chính phủ ta vẫn bị thực dân Pháp bội ước, vì chũng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Cuối năm 1946, không chỉ mở rộng chiếm đóng ở miền Nam, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tiếp có những hành động khiêu khích, công khai mưu đồ xâm lược, thiết lập lại nền cai trị thuộc địa đối với nước ta. Tháng 11/1946, chúng ngang nhiên đưa lực lượng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố, tàn sát dân thường, chiếm một số trụ sở của Chính phủ cách mạng. Đỉnh điểm là ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng và tuyên bố nếu yêu cầu không được đáp ứng thì chậm nhất sáng 20/12/1946 quân Pháp sẽ hành động.
Trước hành động vi phạm tho bạo độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, mọi điều kiện hòa bình đã hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập khẩn cấp Ban Thường vụ Trung ương Đảng, bí mật họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông, thông qua quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tại Hà Nội, đúng 20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân Nhà máy Ðiện Yên Phụ phá máy, tắt điện trong thành phố, làm hiệu lệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Ngày 20/12/1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
Bản viết tay “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Ảnh tư liệu)
Bằng văn phong giản dị, súc tích, hùng hồn, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời hịch non sông, là hiệu lệnh cứu nước trong thời khắc Tổ quốc lâm nguy. Một quyết định lịch sử, đúng đắn và kịp thời của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh không thể nhân nhượng thực dân Pháp được nữa, vì nhân nhượng là mất nước. Đó là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Chính phủ cách mạng cũng không thể chần chừ, vì chần chừ sẽ bị địch tấn công tiêu diệt. Dân tộc ta không còn lựa chọn nào khác là buộc phải đứng lên kháng chiến chống quân xâm lược.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (viết xong ngày 12/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế, nhưng dựa vào sức mình là chính nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, từ đánh nhỏ tiến lên đánh lớn, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, giành thắng lợi từng phần đến thắng lợi hoàn toàn. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt, tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân, tin vào thắng lợi tất yếu: “Dù phải gian lao kháng chiến nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định thuộc về dân tộc ta...” và trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta đã đoàn kết, chung sức đồng lòng, đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bước vào cuộc trường chinh đầy gian khổ nhưng hết sức vinh quang. Chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, quân dân ta ở các tỉnh Bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng. Chiến sự diễn ra rất quyết liệt, đặc biệt là trong các thành phố lớn. Tại Thủ đô Hà Nội, khoảng 20 giờ, ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả thành phố tắt điện. Đó là hiệu lệnh chiến đấu toàn thành, mở đầu kháng chiến toàn quốc. Dù quân ta trang bị vũ khí thô sơ chống lại kẻ địch tinh nhuệ trang bị vũ khí hiện đại, nhưng với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, chiến sĩ ta có sự hỗ trợ tích cực của Nhân dân vẫn ngày đêm kiên cường bám trụ, giành giật với địch từng căn nhà, từng góc phố. Nhiều trận đánh diễn ra quyết liệt tại Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân, nhà bưu điện... diệt nhiều địch, gây hoang mang cho kẻ thù.
Phát lệnh toàn quốc khác chiến tại các của ngõ Thủ đô Hà Nội (Ảnh tư liệu)
Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung sức đồng lòng đánh giặc cứu nước với ý chí sục sôi, niềm tin tất thắng. Đến tháng 02/1947, khi địch tăng viện phá vòng vây, lực lượng ta được lệnh rút về hậu phương, cuộc chiến đấu trong các đô thị tạm thời kết thúc để chuyển sang giai đoạn chiến đấu mới. Trải qua gần hai tháng liên tục chiến đấu, quân dân ta giành thắng lợi quan trọng: thực hiện tiêu hao, tiêu diệt, giam chân địch trong thành phố, làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; tạo điều kiện di chuyển các cơ quan, kho tàng, vật chất (ta đã vận chuyển được gần 40.000 tấn máy móc, nguyên liệu ra vùng căn cứ); tranh thủ thời gian tổ chức cho hàng chục vạn Nhân dân tản cư về vùng căn cứ xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài.
Đã 77 năm trôi qua nhưng lời kêu gọi bất hủ có giá trị lịch sử sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, khẳng định bài học lớn về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Chúng ta càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946). Trước hết, đó là kết quả từ một quá trình đấu tranh đầy cam go, phức tạp, thể hiện bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trước thử thách ngặt nghèo, mà biểu hiện cụ thể là những quyết sách đúng đắn, sáng tạo vừa linh hoạt, mềm dẻo, nhưng cũng rất kiên quyết.
Kết quả đem lại là chúng ta từng bước loại bỏ bớt kẻ thù, tranh thủ được thời gian chuẩn bị tiềm lực để bước vào kháng chiến. Mặt khác, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến còn thể hiện rõ sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam, sức mạnh ấy được tạo ra từ truyền thống yêu nước nồng nàn kết hợp với chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, nhờ đó mà ngay từ đầu chúng ta đập tan âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài, mở ra thắng lợi đầu tiên trong cuộc trường chinh 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975). Trước tiên là 09 năm kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi oanh liệt, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký vào Hiệp định Gevève năm 1954 về công nhận độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ở nước ta, rút quân khỏi Việt Nam, viết nên thiên sử vàng cho lịch sử dân tộc. Tiếp theo là 21 năm ròng chống Mỹ, cứu nước, kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử, cả nước thống nhất, vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bao trùm hơn tất cả, quyết định ấy góp phần khẳng định cho đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương [1] trong cuộc đụng đầu lịch sử với thực dân Pháp.
Trong công cuộc đổi mới, để giữ vững và bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình lâu dài của đất nước, tư tưởng “hòa bình” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thắp lên từ ngày đầu phát động Nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã luôn soi đường, chỉ lối cho Đảng ta, Nhân dân và các lực lượng vũ trang ta tập trung vào thực hành và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khát vọng hòa bình, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ phá hoại, xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do đất nước ta không chỉ được nuôi dưỡng, hun đúc, phát huy trong mọi tầng lớp nhân dân và các lực lượng vũ trang ta, mà còn được cụ thể hóa bằng những hành động, việc làm cụ thể trong xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc và chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình.
Ngày 19/12/1946 đã đi vào lịch sử, ghi một dấu ấn chứng tỏ sự sáng suốt, quyết đoán, sự lựa chọn duy nhất đúng của Bác Hồ và Trung ương Ðảng: Phải giành lấy thế chủ động tiến công, trong tình thế không còn hòa hoãn được nữa. 77 năm đã trôi qua nhưng ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vẫn còn nguyên giá trị, vẫn vang vọng như hồn thiêng sông núi Việt Nam. Không chỉ là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường, bất khuất và lòng quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta, đây còn là Cương lĩnh về khát vọng hòa bình, tiếp thêm sức mạnh cho toàn dân tộc vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thịnh vượng, hùng cường, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Lê Văn Sơn
[1] Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (02/1951) đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam.